Biên phòng - Chiều buông trên đỉnh Chư Mo Ray hùng vĩ. Dưới chân ngọn núi ấy, bên dòng sông Sa Thầy dài như tiếng chiêng ngân, dưới tán rừng Ja Boóc, đã từng có 12 ngôi làng của người dân Campuchia tị nạn suốt nhiều năm. Họ trốn chạy khỏi sự truy lùng của Khmer đỏ, dựa vào đại ngàn, dựa vào ân tình và sự giúp đỡ của chính quyền, nhân dân Việt Nam để tìm lại cuộc sống yên bình, quật cường đứng lên giành lại đất nước.

Trong căn nhà ở thị trấn Bâng Kon Seng, thành phố Ban Lung, tỉnh Rattanakiri, Đại tướng Bun Thoong, nguyên Ủy viên Thường trực Trung ương Đảng Nhân dân Campuchia, nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Vương quốc Campuchia tiếp đón chúng tôi như người thân. Bởi ông luôn coi những chiến sĩ Biên phòng Việt Nam là ân nhân, huống chi chuyến đi này còn có một “cố nhân” của ông - Đại tá Diệp Xuân Cung, nguyên Phó Chỉ huy trưởng BĐBP Kon Tum, người đã cùng Đại tướng Bun Thoong kề vai sát cánh trên chiến hào chống kẻ thù chung.
Sau năm 1975, cả đất nước Campuchia dưới sự cai trị của Khmer đỏ bị chia cắt thành những “công xã” tập trung. Trong năm 1975, đã có trên 2.000 người ở các tỉnh Đông Bắc Campuchia chạy lánh nạn sang khu vực Sa Thầy, tỉnh Kon Tum của Việt Nam. Trong số đó, có ông Bun Thoong và nhiều cán bộ ở một số tỉnh Đông Bắc Campuchia. Đại tá Diệp Xuân Cung, khi ấy là một trinh sát viên của Công an nhân dân vũ trang (CANDVT) Gia Lai - Kon Tum nhớ lại: “Những người theo đoàn tị nạn của Bun Thoong đã đến trình bày với Thiếu tá Hoàng Thành, Chính trị viên Đồn CANDVT 673 xin được tị nạn. Sau đó, phía Khmer đỏ đã sang huyện Sa Thầy, làm thủ tục xin đưa số dân này về nước. Nhưng qua điều tra nắm tình hình, chúng tôi biết những người dân xin tị nạn được trả về Campuchia đều bị Khmer đỏ giết hại, nên chúng tôi hết sức băn khoăn”.
Thời điểm ấy, nhận được tin báo của trinh sát ngoại tuyến, Bộ Tư lệnh CANDVT đã chỉ đạo CANDVT Gia Lai - Kon Tum tham mưu với chính quyền địa phương tổ chức tiếp nhận bà con. Đồng thời, giúp đỡ thuốc men, lương thực và giúp dân lánh nạn của bạn tạm cư dọc theo trục đường 14C, đoạn từ chân đèo Ngọc Vin đến ngầm sông Sa Thầy. Tổ công tác Ja Boóc, gồm 6 đồng chí: Trần Đình Dũng, Diệp Xuân Cung, Đào Trọng Phồn, Thẩm, Lục và Siu Grum được thành lập, có nhiệm vụ phối hợp với Đồn CANDVT 673 nắm tình hình và giúp đỡ những người tị nạn.
Thiếu tướng Trần Đình Dũng, nguyên Phó Tư lệnh BĐBP kể chi tiết: “Việc đầu tiên ở Ja Boóc là bố trí dân bạn sống thành 12 làng như bên Campuchia, sau đó, tổ chức mỗi làng bầu 2 cán bộ tự quản. Khi đã ổn định chỗ ở, anh em thay nhau xuống địa bàn giúp dân dựng nhà tạm, hướng dẫn sản xuất, khám chữa bệnh, vận động ăn, ở hợp vệ sinh...”.
Tiếp đó, UBND huyện Sa Thầy quyết định thành lập xã Ja Boóc, hướng dẫn các làng tự bầu chính quyền tự quản và lực lượng bảo vệ. Nhân dân và chính quyền 2 huyện Chư Prông, Sa Thầy giúp đỡ hàng tạ thóc giống, gia súc, gia cầm, công cụ sản xuất và đặc biệt là chia sẻ đất để làm nương rẫy, chưa kể hàng chục tấn lương thực để ăn trong những ngày giáp hạt, chờ mùa thu hoạch. Đồng thời, giao đất cho người tị nạn sản xuất, tạo mọi điều kiện để người dân Campuchia sớm ổn định đời sống, không can thiệp vào quyết định ở lại tị nạn hay trở về Campuchia...
Đại tướng Bun Thoong nói tiếng Việt rất tốt: “Những ngày ở Ja Boóc, suốt đời tôi không bao giờ quên. Tưởng như sẽ bị chôn dưới những hố chôn tập thể, không ngờ lại được cứu giúp, công an Việt Nam giúp nhân dân Campuchia dựng nhà tạm, sản xuất, vận động ăn ở hợp vệ sinh, cứu đói, khám chữa bệnh. Anh Dũng, anh Cung, anh Vân và nhiều bộ đội khác ngày huấn luyện vũ trang cho các thanh niên trong đoàn người tị nạn để chờ ngày trở về chiến đấu giải phóng quê nhà Rattanakiri, đêm canh trực bảo vệ dân lành. Ơn nghĩa ấy chúng tôi không bao giờ quên được”.
Tháng 10-1977, Ủy ban khởi nghĩa Đông Bắc Campuchia được thành lập bao gồm 5 tỉnh Stung Treng, Rattarakiri, Mondulkiri, Kratie, Preah Vihear. Vậy là, sau hơn hai năm bền bỉ luyện tập, chuẩn bị dưới tán rừng Ja Boóc, cùng với các khu vực tị nạn khác nằm dọc biên giới Gia Lai - Kon Tum, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Rattarakiri cũng chính thức công khai hoạt động và lên kế hoạch về nước chiến đấu. Phía Việt Nam cũng đã quyết định thành lập Đoàn 578, ở bên cạnh Ủy ban khởi nghĩa Đông Bắc Campuchia để cố vấn về mặt quân sự, chính trị... cho bạn.
Nhiều thanh niên lúc ở Ja Boóc cầm súng còn chưa thạo đã nhanh chóng trưởng thành và trở thành nòng cốt của cách mạng Campuchia cũng như của tỉnh Rattanakiri. Sau này, trong số hơn 2.000 người tị nạn ở Ja Boóc ngày ấy, có hơn 100 người đã trở thành cán bộ nòng cốt của chính quyền cách mạng Campuchia.
Có một câu chuyện rất nhân văn là thời điểm sang Việt Nam lánh nạn, ông Bun Thoong đã mang theo vợ. Và trong thời gian lưu lại Việt Nam, cậu con trai của vợ chồng ông đã chào đời trên đất Việt Nam. Một ngày, khi lên đường trở về để chiến đấu giải phóng quê hương, ông Bun Thoong đã dắt con trai còn bé xíu đến trước mặt người lính CANDVT Phan Thái Vân, gửi gắm: “Ngày mai, tôi về nước chiến đấu. Nếu tôi có mệnh hệ gì, nhất định anh phải nuôi cháu”. Nhưng nhờ sự che chở, giúp đỡ của nhân dân và những người lính CANDVT Việt Nam, gia đình ông Bun Thoong đã an toàn và trở về Campuchia.
Cậu bé ngày ấy được cha “gửi gắm” cho CANDVT Việt Nam phòng khi bất trắc, giờ đã trưởng thành và giữ chức vụ Tỉnh trưởng Rattanakiri, Phó Chủ tịch Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia. Cũng như cha, Tỉnh trưởng Thoong Sa Voun luôn dành tình cảm tốt đẹp nhất cho đất nước Việt Nam, bởi đâu là nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình thì đó chính là quê hương. Thoong Sa Voun đặc biệt quan tâm đến việc gìn giữ mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa chính quyền và nhân dân Rattanakiri với tỉnh Gia Lai, Kon Tum của Việt Nam, nhất là công tác phối hợp, tìm kiếm hài cốt liệt sĩ và chuyên gia hi sinh tại Campuchia.
Trên đường về, ngang dòng sông Sa Thầy, những buôn làng tị nạn năm xưa giờ là những rừng cao su hun hút, ánh điện sáng như sao dẫn lối về những nếp nhà của cộng đồng các dân tộc thiểu số nơi đây. Tôi cứ nhớ mãi câu chuyện của hai “người lính già tóc bạc, kể mãi chuyện biên cương” trên đất bạn. Họ đã có một thời tuổi trẻ cống hiến cho độc lập và tự do của dân tộc, câu chuyện của họ chính là nguồn suối mát lành để vun tưới trái ngọt, hoa lành cho tình đoàn kết, hữu nghị giữa thanh niên hai nước.
Tuệ Lâm