Biên phòng - HĐND và UBND được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, gồm có HĐND và UBND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Tại Chương V, Luật Biên phòng Việt Nam (BPVN) quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về biên phòng, trong đó, trách nhiệm của HĐND, UBND các cấp được quy định tại Điều 33 của Chương V.

Điều 33, Luật BPVN quy định:
“1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HĐND các cấp nơi có biên giới quốc gia có trách nhiệm sau đây:
a) Quyết định chủ trương, biện pháp, huy động các nguồn lực bảo đảm thực thi nhiệm vụ biên phòng phù hợp với Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh;
b) Quyết định ngân sách bảo đảm thực thi nhiệm vụ biên phòng và xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách ở địa phương; chính sách ưu tiên bảo đảm nhà ở, đất ở và các chính sách khác cho cán bộ, chiến sĩ BĐBP công tác lâu dài ở khu vực biên giới;
c) Giám sát thực hiện pháp luật về biên phòng ở địa phương.
2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, UBND các cấp nơi có biên giới quốc gia thực hiện quản lý nhà nước về biên phòng và có trách nhiệm sau đây:
a) Lập dự toán ngân sách trình HĐND cùng cấp bảo đảm thực thi nhiệm vụ biên phòng và xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách ở địa phương;
b) Tập trung và huy động các nguồn lực xây dựng khu vực biên giới vững mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh ở địa phương; thực hiện Ngày Biên phòng toàn dân; thực hiện chính sách hậu phương quân đội;
c) Sắp xếp, bố trí dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng; kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới;
d) Chủ trì, phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp, cơ quan, tổ chức liên quan tổ chức phong trào quần chúng nhân dân tham gia quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở biên giới;
đ) Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
3. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HĐND, UBND các cấp nơi không có biên giới quốc gia có trách nhiệm sau đây:
a) HĐND các cấp quyết định chủ trương, biện pháp, ngân sách, giám sát, huy động các nguồn lực bảo đảm thực thi nhiệm vụ biên phòng;
b) UBND các cấp tham gia, phối hợp với cơ quan, tổ chức để thực thi nhiệm vụ biên phòng, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về biên phòng; tham gia thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, đối ngoại ở biên giới; thực hiện Ngày Biên phòng toàn dân; thực hiện chính sách hậu phương quân đội”.
Căn cứ vào quy định nêu trên thì trách nhiệm của HĐND và UBND các cấp về Biên phòng được xác định trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.
HĐND gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. UBND do HĐND cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND do pháp luật quy định. Theo pháp luật hiện hành, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND các cấp, Luật BPVN quy định trách nhiệm của HĐND và UBND các cấp về Biên phòng.
Về trách nhiệm của HĐND, Luật BPVN xác định rõ trách nhiệm của HĐND các cấp nơi có biên giới quốc gia và trách nhiệm của HĐND các cấp nơi không có biên giới quốc gia. Theo quy định tại khoản 1, Điều 33 và điểm a, khoản 3, Điều 33, Luật BPVN thì trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HĐND các cấp nơi có biên giới quốc gia cũng như nơi không có biên giới quốc gia đều có trách nhiệm: Quyết định chủ trương, biện pháp, ngân sách, huy động các nguồn lực bảo đảm thực thi nhiệm vụ biên phòng. Ngoài ra, đối với HĐND các cấp nơi có biên giới quốc gia, Luật BPVN quy định thêm trách nhiệm: Quyết định ngân sách xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách ở địa phương; chính sách ưu tiên bảo đảm nhà ở, đất ở và các chính sách khác cho cán bộ, chiến sĩ BĐBP công tác lâu dài ở khu vực biên giới. Về trách nhiệm giám sát, Luật BPVN quy định: “HĐND các cấp nơi có biên giới quốc gia có trách nhiệm giám sát thực hiện pháp luật về biên phòng ở địa phương”.
Về trách nhiệm của UBND các cấp, Luật BPVN xác định rõ trách nhiệm của UBND các cấp nơi có biên giới quốc gia và trách nhiệm của UBND các cấp nơi không có biên giới quốc gia. Đối với UBND các cấp nơi có biên giới quốc gia, Luật BPVN quy định: Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, UBND các cấp nơi có biên giới quốc gia thực hiện quản lý nhà nước về biên phòng. Quy định này được xây dựng dựa trên cơ sở: Đơn vị hành chính có biên giới quốc gia thì cơ quan quản lý nhà nước phải quản lý về biên phòng. Ngoài ra, UBND các cấp nơi có biên giới quốc gia phải có trách nhiệm quy định tại điểm a, b, c, d, đ, khoản 2, Điều 33, Luật BPVN; các trách nhiệm này được Luật BPVN quy định dựa trên cơ sở xác định các nội dung về biên phòng mà UBND các cấp nơi có biên giới quốc gia phải thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.
UBND các cấp nơi không có biên giới quốc gia có trách nhiệm được nêu tại điểm b, khoản 3, Điều 33, Luật BPVN; các trách nhiệm này được Luật BPVN quy định dựa trên cơ sở xác định các nội dung về biên phòng mà UBND các cấp nơi không có biên giới quốc gia phải thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này.
Quy định của Luật BPVN về trách nhiệm của HĐND và UBND các cấp là cơ sở pháp lý để phát huy vai trò của HĐND và UBND các cấp trong bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới.
Thạc sĩ Vũ Quang Hùng, Khoa Pháp luật, Học viện Biên phòng