Biên phòng - Trong những năm gần đây, chất thải rắn gia tăng nhanh cùng với quá trình đô thị hóa tạo ra những thách thức không nhỏ cho Việt Nam trong quá trình quản lý và xử lý. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, không chỉ có thách thức, Việt Nam cũng sẽ có các cơ hội về khai thác tiềm năng chất thải rắn ở quy mô đô thị và công nghiệp.

71% rác thải được xử lý bằng chôn lấp
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng rác thải rắn thu gom tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ năm 2015-2019, từ mức 32,4 nghìn tấn/ngày lên 65 nghìn tấn/ngày, trong đó, 35,6 nghìn tấn/ngày (hơn 50%) đến từ các đô thị, so với 28,4 nghìn tấn/ngày từ khu vực nông thôn, dù dân số nông thôn cao gấp hai lần đô thị.
Nếu chỉ tính 5 thành phố trực thuộc Trung ương, gồm Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ, thì tổng lượng rác thải đô thị đã chiếm tới 40%, riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thải ra 16.000 tấn rác mỗi ngày, tương đương 33,6% cả nước. Năm 2019, chỉ 85% lượng rác thải rắn thu gom được xử lý đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia tăng 10% so với mức 75% của năm 2015. Chính phủ đặt mục tiêu tới năm 2025 tăng tỷ lệ xử lý này lên 90% với rác thải ở đô thị và 85% ở khu vực nông thôn, phấn đấu xử lý 100% vào năm 2050.
Tuy nhiên, phương thức quản lý và xử lý rác thải áp dụng hiện nay còn khá hạn chế, các công nghệ xử lý rác thải rắn, nhất là công nghệ phát điện từ rác, còn gặp nhiều thách thức. Tính đến năm 2019, Việt Nam có 1.322 cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt, trong đó, có 381 lò đốt, 37 dây chuyền chế biến phân Compost, 904 bãi chôn lấp.71% lượng chất thải rắn thu gom được xử lý bằng chôn lấp. Chỉ có 16% lượng thu gom được xử lý bằng ủ compost và 13% lượng thu gom được xử lý bằng phương pháp đốt. Nhiều bãi chôn lấp rơi vào tình trạng vượt công suất nên khó tuân thủ được các điều kiện bảo vệ môi trường, gây ra nhiều hệ lụy cho môi trường và sức khỏe như ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm đất, ô nhiễm không khí...
Theo kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2013, đến hết năm 2019, Việt Nam phải xây dựng được 229 cơ sở xử lý rác, nhưng tới cuối năm 2021, mới chỉ 85% số cơ sở được hoàn thành. Công tác xử lý chất thải rắn hiện đang gặp phải nhiều thách thức, đó là quỹ đất dành cho các bãi chôn lấp rác thải ngày càng hạn chế, phương thức chôn lấp từ lâu đời, tỷ lệ được xử lý kết hợp thu hồi năng lượng thấp. Trong khi đó, hầu hết rác chưa được phân loại tại nguồn dẫn đến chất lượng rác thải đầu vào cho quá trình xử lý còn thấp, giảm hiệu quả. Việc triển khai thực hiện các quy hoạch chất thải rắn gặp nhiều khó khăn do các quy định pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó, việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt chưa được áp dụng theo phương thức quản lý tổng hợp, chưa chú trọng đến các giải pháp giảm thiểu trong sinh hoạt
Ứng dụng công nghệ để xử lý rác thải
Trước thực trạng trên, Sáng kiến về Chuyển dịch Năng lượng Việt Nam (VIETSE) đã tiến hành nghiên cứu các giải pháp nhằm tối ưu hóa tiềm năng chất thải rắn của quốc gia. Một trong những công cụ quan trọng nhất được VIETSE phát triển là bản đồ chất hiện trạng thải rắn hàng ngày ở quy mô đô thị và công nghiệp.

Kho dữ liệu này được xây dựng trên phạm vi toàn quốc và được thực hiện bằng phương pháp nội suy dựa trên số liệu điều tra về lượng chất thải rắn phát sinh hàng ngày trên đầu người tại các tỉnh, thành và số liệu điều tra dân cư cấp xã. Các kết quả phân tích được trực quan hóa trên hệ thống tin địa lý GIS. Hệ thống bảng tin của bản đồ gồm có 4 hạng mục chính về Quản lý chất thải rắn y tế, xây dựng và công nghiệp; Quản lý các cơ sở xử lý rác thải; Các hoạt động thu gom và xử lý rác thải và chất thải rắn sinh hoạt.
Bà Trần Hoàng Anh, Chuyên gia Phân tích Năng lượng (VIETSE) nhận định: “Hệ thống thông tin GIS về tiềm năng chất thải rắn tại Việt Nam sẽ góp phần nhận diện tiềm năng tương lai của lĩnh vực này trong quá trình chuyển dịch năng lượng với các mục tiêu giảm ô nhiễm môi trường và bảo vệ khí hậu. Công cụ này sẽ hỗ trợ cho quá trình ra quyết định đầu tư các dự án xử lý chất thải rắn, cũng như xây dựng chính sách quản lý và xử lý chất thải một cách hiệu quả, thực sự hiện thực hóa phương châm “rác là tài nguyên”, qua đó, đóng góp vào sự phát triển của ngành năng lượng và bảo vệ môi trường”.
Theo các chuyên gia, Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng hiệu quả các công nghệ xử lý rác khác nhau trên thế giới để biến rác thải thành tài nguyên, góp phần giúp nước ta phát triển nền kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Bà Trần Hải Anh, Chuyên gia tư vấn cao cấp về môi trường cho biết, hiện có 7 phương pháp xử lý chất thải rắn đang được các nước áp dụng gồm: Công nghệ xử lý chất thải hỗn hợp; Đồng đốt trong lò xi măng; Phương pháp thủy phân nhiệt xử lý bùn cống; Sử dụng vi khuẩn xử lý rác hữu cơ theo công nghệ của Hyperthermics; Khí sinh học cho các hộ gia đình chăn nuôi; Sử dụng giun quế sử lý chất thải hữu cơ; Sử dụng ruồi lính đen xử lý chất thải hữu cơ. Mỗi công nghệ có ưu điểm và hạn chế cũng như chi phí khác nhau và phù hợp với từng loại rác thải khác nhau.
Bà Trần Hải Anh cho rằng, các công nghệ xử lý là một phần quan trọng của chu trình xử lý rác thải. Tuy nhiên, dù áp dụng công nghệ nào thì yếu tố tiên quyết vẫn là tính chất của rác thải và nhu cầu của chủ đầu tư. Đồng thời, việc phân loại chất thải tại nguồn là rất cần thiết. Ngoài ra, khi lựa chọn công nghệ xử lý rác thải phải xem xét tính khả thi về mặt kinh tế.
Trong khi đó, ông Hans Breukelman, Giám đốc công ty BreAd, thành viên của Hiệp hội Chất thải rắn Quốc tế chia sẻ: “Không có công nghệ nào là ‘liều thuốc tiên” cho xử lý rác thải, mà sẽ cần tới giải pháp riêng cho từng vùng. Đây là vấn đề cần sự hợp tác của nhiều bên: chính quyền, doanh nghiệp, cộng đồng và từng người dân. Trong đó, hợp tác công tư sẽ đóng vai trò thiết yếu với hiệu quả xử lý rác”.
Xuân Hương