Biên phòng - Luật Biển Việt Nam là căn cứ pháp lý để quản lý Nhà nước về biển
Tuy nhiên, muốn phát huy được hiệu quả của "công cụ" đó, điều cần thiết và quan trọng hơn là việc thiết lập ra một hệ thống tổ chức, lực lượng quản lý biển đầy đủ đồng bộ, có quyền năng và có cơ chế chỉ huy, điều phối ăn khớp, nhịp nhàng từ Trung ương đến địa phương, điều chỉnh và phân chia phạm vi quản lý của các cơ quan quản lý tổng hợp các cấp.
Một trong những chức năng cơ bản của Luật Biển là chức năng bảo vệ. Đó là sự đảm bảo cho các quan hệ xã hội luôn luôn được điều chỉnh bởi pháp luật, tránh những xâm phạm, vi phạm xảy ra trên các vùng biển. Để bảo vệ các quan hệ xã hội, Nhà nước ban hành các quy phạm có chế tài quy định những hành vi vi phạm, các loại hình phạt, mức độ xử phạt và thi hành các quyết định xử phạt.
Đồng thời, Luật Biển cũng quy định thẩm quyền của các cơ quan thực hiện việc ngăn chặn và xử phạt, bảo vệ pháp luật. Đó là những chức năng cơ bản của các cơ quan tài phán, như: Tòa án, Viện Kiểm sát, Thanh tra; các cơ quan hành chính như: UBND các cấp, các cơ quan chuyên trách của các bộ, ngành; thủ trưởng các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp...
Cơ quan, lực lượng và quyền hạn quản lý biển của Việt Nam
Điều 7 Luật Biển Việt Nam quy định về cơ quan quản lý Nhà nước về biển, như sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về biển trong phạm vi cả nước;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình thực hiện quản lý Nhà nước về biển.
Điều 47, 48 Luật Biển Việt Nam quy định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển và nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển bao gồm:
- Các lực lượng có thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân, các lực lượng tuần tra, kiểm soát chuyên ngành khác.
- Lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương, lực lượng bảo vệ của tổ chức cơ quan đóng ven biển và các lực lượng khác có trách nhiệm tham gia tuần tra, kiểm soát trên biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy động.
Về chế tài xử lý vi phạm đã được Luật Biển Việt Nam quy định tại các Điều: 50, 51, 52, 53, Chương VI. Các quy định này đã chỉ rõ tính chất, mức độ vi phạm cần phải được xử lý thích hợp, theo đúng thủ tục pháp lý, bằng những hình thức như xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm dân sự, hình sự theo quy định của pháp luật.
Hệ thống thể chế quản lý biển, hải đảo của Việt Nam
Hiện nay, trong hệ thống thể chế quản lý biển, đảo Việt Nam chủ yếu có hai loại hình:
1. Các cơ quan quản lý Nhà nước về biển theo ngành: Có 13 bộ, ngành cùng tham gia:
- Cơ quan quản lý Nhà nước về nông nghiệp và thủy sản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước các ngành, lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy sản, thủy lợi tại các vùng biển, ven biển và hải đảo.
- Cơ quan quản lý Nhà nước về khoáng sản và dầu khí: Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan quản lý Nhà nước về khoáng sản; Bộ Công Thương là cơ quan quản lý Nhà nước về công nghiệp và thương mại lĩnh vực dầu khí, công nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản; Bộ Xây dựng là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về vật liệu xây dựng.
- Cơ quan quản lý Nhà nước về giao thông vận tải biển: Bộ Giao thông Vận tải là cơ quan quản lý Nhà nước về giao thông vận tải trong đó có giao thông vận tải biển, gồm có: Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Đường thủy nội địa, Cục Hàng không Việt Nam, Cục Đăng kiểm.
- Cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch biển.
- Cơ quan quản lý Nhà nước về ngoại giao và biên giới lãnh thổ quốc gia.
- Cơ quan quản lý Nhà nước về quốc phòng trên biển: Bộ Quốc phòng có mối quan hệ mật thiết với bảo vệ chủ quyền quốc gia. Các lực lượng của Bộ Quốc phòng luôn đóng vai trò nòng cốt trong thực thi pháp luật và phòng thủ trên khu vực biên giới biển, đảo. Các đơn vị của Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ quan trọng liên quan đến công tác quản lý Nhà nước về quốc phòng trên biển, bao gồm: Điều hành chung các hoạt động tác chiến, trong đó, các lực lượng chiến đấu trực tiếp là các đơn vị Hải quân quản lý vùng trời, hoạt động Biên phòng, Cảnh sát Biển, tìm kiếm, cứu nạn...
- Cơ quan quản lý Nhà nước về an ninh vùng biển, ven biển: Bộ Công an là cơ quan quản lý Nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội trong phạm vi cả nước.
2. Cơ quan quản lý Nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển: Nghị định số 25/2008/NĐ-CP ngày 03/4/2008 của Chính phủ đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm vụ quản lý Nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo. Ngày 26/8/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 116/2008/QĐ-TTg quy định Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý Nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo. Ở 28 tỉnh, thành phố ven biển nhiệm vụ này được giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường trực thuộc UBND tỉnh, thành phố.
Về bản chất, quản lý Nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo không thay thế quản lý Nhà nước theo ngành/lĩnh vực nói trên, mà chỉ đóng vai trò điều chỉnh và kết nối các hành vi phát triển (khai thác, sử dụng) của các ngành, lĩnh vực của những người sử dụng biển, vùng ven biển và hải đảo.
Trải qua 5 năm áp dụng, hai loại hình quản lý Nhà nước về biển nói trên đã đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ, quản lý và phát triển biển, đảo của Việt Nam trong tình hình hiện nay hay không, đó vẫn là câu hỏi còn phải tìm được câu trả lời khoa học và khách quan nhất.