Biên phòng - BĐBP là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, Nhà nước, là thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia (BGQG). Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, BĐBP phải được quy định rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn để quản lý, bảo vệ biên giới để các lực lượng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân (BĐBP làm nòng cốt) thực thi nhiệm vụ biên phòng là một tất yếu khách quan, cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Báo Biên phòng trân trọng giới thiệu bài tham luận của Đại tá Nguyễn Ngọc Lương, Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lai Châu góp ý cho dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam tại Hội thảo dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam được tổ chức ngày 23-9 tại Lào Cai.
Cơ sở lí luận khẳng định phải luật hóa về thực thi nhiệm vụ biên phòng được thể hiện rõ trong văn bản (Nghị quyết của Đảng)
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 8-8-1995 của Bộ Chính trị về xây dựng BĐBP trong tình hình mới nêu rõ: “BĐBP là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền và an ninh BGQG, theo nhiệm vụ và quyền hạn được giao; đồng thời là một lực lượng thành viên của khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới”; “Để đảm bảo BĐBP đủ sức hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới, cần ổn định về tổ chức, xây dựng BĐBP thực sự là một lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng cao, có quân số và tổ chức hợp lý”.
Thông báo 165-TB/TW ngày 22-12-2004 của Ban Chấp hành Trung ương về việc Kết luận của Bộ Chính trị về tổ chức BĐBP xác định: “BĐBP là lực lượng nòng cốt, chuyên trách làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động lấn chiếm biên giới, vi phạm chủ quyền và chống các hoạt động xâm nhập, vượt biên phá hoại an ninh, trật tự của địch và các loại tội phạm, nhất là buôn lậu, vận chuyển ma túy, vũ khí, chất nổ qua biên giới”; “Bảo đảm cho BĐBP thực hiện tốt ba chức năng quản lý nhà nước về an ninh, quốc phòng và đối ngoại ở khu vực biên giới; trong thời bình là quản lý biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác thân thiện với các nước láng giềng; khi có chiến tranh hoặc xung đột biên giới, thực hiện tốt nhiệm vụ tác chiến phòng thủ được phân công trong thế trận phòng thủ chung trên địa bàn”; “BĐBP là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng”.
Đặc biệt, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28-9-2018 của Bộ Chính trị về “Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia” đã xác định mục tiêu chung là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, BGQG...; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác; bảo vệ, phòng thủ vững chắc BGQG; góp phần phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới và cả nước” và xác định: “Xây dựng lực lượng bảo vệ BGQG toàn dân rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, BĐBP là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng, lực lượng chuyên trách, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số thành phần tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ BGQG trong tình hình mới”; “hoàn chỉnh cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về xây dựng quản lý, bảo vệ BGQG... sớm ban hành Luật Biên phòng Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thực hiện".
Từ đó, xác định rõ nội dung, hình thức và biện pháp thực thi nhiệm vụ biên phòng. Tổ chức quản lý bảo vệ chủ quyền lãnh thổ BGQG, bảo vệ an ninh BGQG, lợi ích quốc gia trên biên giới; tổ chức kiểm tra thực hiện pháp luật về BGQG và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; kiểm soát xuất, nhập cảnh ở cửa khẩu (đường bộ, đường sắt, đường thủy) và đường qua lại biên giới; đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và xử lý vi phạm hành chính; phối hợp với các đơn vị lực lượng vũ trang (các đơn vị Quân đội, Công an, Dân quân tự vệ) và dựa vào nhân dân xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu, chiếu đấu chống gây xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược; tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân trong thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền Biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh trong thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới; quan hệ, phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới, chính quyền địa phương nước tiếp giáp trong xây dựng, quản lý, bảo vệ BGQG; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, phát triển.
Nhiệm vụ biên phòng được quy định trong các văn bản pháp luật
Thực tiễn quy định của pháp luật về công tác thực thi nhiệm vụ biên phòng không chỉ khẳng định trong các văn kiện của Đảng mà đã được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nưóc, như: Luật Biên giới quốc gia năm 2003: Điều 31 quy định: “BĐBP là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ BGQG, giữ gìn an ninh an ninh trật tự ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật”. Nghị định 140/2004/NĐ-CP, ngày 25-6-2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật BGQG. Luật An ninh quốc gia năm 2004: Điều 22 quy định: “BĐBP là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở khu vực biên giới trên đất liền và khu vực biên giới trên biển”.
Luật Công an nhân dân năm 2014: Điều 15 quy định: “Lực lượng Công an nhân dân phối hợp với BĐBP, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ BGQG, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật. Luật Quốc phòng năm 2018 (sửa đổi): Điều 35 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng: “Chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BGQG; duy trì an ninh, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu, hải đảo, vùng biển và vùng trời của nước CHXHCN Việt Nam theo quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên”.
Pháp lệnh BĐBP, ngay tại điều 1 quy định: “BĐBP là lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng, của nhà nước CHXHCN Việt Nam, là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh trật tự BGQG trên đất liền, các hải đảo, vùng biển và tại các cửa khẩu, là một lực lượng thành viên trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới”. Điều 6 Pháp lệnh quy định: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, BĐBP có nhiệm vụ tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về BGQG của nhà nước CHXHCN Việt Nam, các điều ước quốc tế có liên quan đến chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trên khu vực biên giới đất liền, các hải đảo, vùng biển... kiểm soát việc xuất, nhập cảnh qua các cửa khẩu biên giới và các đường qua lại biên giới”... Và quy định tại nhiều văn bản khác nhau, là cơ sở pháp lý quan trọng để BĐBP quản lý bảo vệ BGQG, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới nói chung và tổ chức hoạt động của BĐBP nói riêng từ khi thành lập đến nay (nhất là qua 20 năm khi có Pháp lệnh BĐBP).
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi nhiệm vụ biên phòng còn những vướng mắc như: Trong các văn bản quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BĐBP, đặc biệt là Pháp lệnh BĐBP chưa thể chế đầy đủ chủ trương, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh, chưa điều chỉnh về hình thức quản lý, bảo vệ BGQG và biện pháp công tác biên phòng, chưa thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Chưa luật hóa các chính sách của Nhà nước về công tác biên phòng, các hình thức quản lý, bảo vệ BGQG, biện pháp biên phòng; cơ chế tài chính cho hoạt động quản lý, bảo vệ BGQG; chưa luật hóa về tổ chức của lực lượng chuyên trách, lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ biên phòng và quản lý nhà nước về công tác biên phòng. Vì vậy, chưa tạo cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho lực lượng vũ trang làm nòng cốt, lực lượng chuyên trách (BĐBP) nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền lãnh thổ BGQG, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, vùng biển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, công tác biên phòng trong giai đoạn cách mạng mới.
Nhiệm vụ, quyền hạn của BĐBP đang được quy định tản mạn trong các Luật chuyên ngành dẫn đến tình trạng khó theo dõi, mâu thuẫn về pháp luật, thậm chí gây khó khăn cho quá trình thực thi pháp luật của lực lượng BĐBP... trên thực tiễn khi thực thi nhiệm vụ. Một số quy định của các luật chuyên ngành liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng BĐBP còn bộc lộ những vướng mắc, bất cập, ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của BĐBP. Một số nội dung trong pháp lệnh BĐBP quy định, hiện nay chưa được bổ sung, cập nhật với nội dung một số văn bản pháp luật khác như Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự đã được thay thế bằng Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được thay thế bằng Luật xử lý vi phạm hành chính; Điều 13 của Pháp lệnh BĐBP chưa phù hợp với Điều 32, Hiến pháp năm 2013, Điều 7 Luật Quốc phòng, nội dung của Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản. Điều 17 của Pháp lệnh BĐBP chưa thống nhất với nội dung Điều 23 Luật quản lý, sử dụng vũ khí vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. BĐBP với chức năng là một thành viên trong khu vực phòng thủ, nhưng Nghị định số 152/2007/NĐ-CP ngày 10-10-1997 của Thủ tưởng Chính phủ về khu vực phòng thủ và Thông tư số 139/2008/TT-BQP ngày 14-11-2008 của Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 152/2007/NĐ-CP ngày 10-10-2007 của Chính phủ quy định về thành phần Ban Chỉ đạo Quân khu, trong đó lực lượng vũ trang cấp tỉnh chỉ có Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự, Giám đốc công an tỉnh nhưng không có Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh.
Về tư cách pháp lý, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh không thể phối hợp với các lực lượng vũ trang trong khu vực phòng thủ, chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ ở cấp tỉnh, huyện biên giới trên địa bàn Quân khu mà phải thông qua Bộ Tư lệnh BĐBP trong thành phần Ban Chỉ đạo, gây khó khăn cho Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh trong thực hiện Điều 8 Pháp lệnh.
Tuy đã quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng BĐBP nhưng chưa quy định cụ thể các biện pháp công tác Biên phòng để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Một số nhiệm vụ BĐBP đã và đang thực hiện trên thực tế có hiệu quả nhưng chưa được bổ sung, quy định trong Pháp lệnh như: Nhiệm vụ tham gia phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, phòng chống lụt bão, phòng chống cháy nổ, cháy rừng và ứng phó thảm họa môi trường, bảo vệ rừng...
Ngoài khó khăn, bất cập trên, hiện nay Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân; về quyền con người, quyền công dân... Từ đó, Pháp lệnh có một số nội dung không còn phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu luật hóa các quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013 vì Pháp lệnh BĐBP có những quy định tác động, hạn chế đến quyền con người, quyền công dân như: Điều 11 Pháp lệnh quy định BĐBP được trang bị và sử dụng các biện pháp nghiệp vụ an ninh, các loại phương tiện, vũ khí, khí tài, kỹ thuật quân sự, công cụ hỗ trợ, Điều 12 Pháp lệnh quy định BĐBP có quyền khởi tố, điều tra tội phạm, xử lý vi phạm hành chính; Điều 13 Pháp lệnh quy định các trường hợp nổ súng của BĐBP; Điều 14 Pháp lệnh quy định BĐBP có quyền sử dụng các loại phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện giao thông, kể cả người điều khiển phương tiện của cơ quan nhà nước; tổ chức kinh tế-xã hội và cá nhân; Điều 15 Pháp lệnh quy định BĐBP có quyền hạn chế hoặc tạm dừng các hoạt động cũng như việc qua lại biên giới ở những khu vực nhất định trong khu vực biên giới... Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 các nội dung này (chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BĐBP) cần quy định trong Luật.
Đặc biệt là Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Chiến lược Bảo vệ BGQG” trong đó xác định: “Xây dựng lực lượng bảo vệ BGQG toàn dân rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, BĐBP là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng, lực lượng chuyên trách, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại...”. So với Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 8-8-1995 của Bộ Chính trị về “Xây dựng BĐBP trong tình hình mới”, Nghị quyết 33-NQ/TW đưa ra một số chủ trương mới liên quan đến vị trí, vai trò của các lực lượng trong bảo vệ BGQG: Xác định lực lượng vũ trang là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Dân quân tự vệ, trong đó BĐBP là lực lượng nòng cốt, chuyên trách; tương ứng với vị trí, vai trò của lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ BGQG, Nghị quyết số 33-NQ/TW quy định một số nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng chỉ đạo BĐBP trong thực hiện nhiệm vụ biên phòng và nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ biên phòng theo “Chiến lược bảo vệ BGQG”. Chẳng hạn như nhiệm vụ xử lý các tình huống về an ninh, an toàn trên biên giới, vùng biển, đảo; hợp tác quốc tế về thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan đến chủ quyền, lãnh thổ BGQG trên biên giới đất liền, các hải đảo, vùng biển mà Việt Nam là thành viên... Các chủ trương này của Nghị quyết số 33-NQ/TW đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa đầy đủ quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng nòng cốt chuyên trách trong quản lý, bảo vệ BGQG.
Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã rút ra bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, tập trung thực hiện tốt vai trò phối hợp tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Để làm tốt, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tạo được sự thống nhất trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và của toàn dân đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, trên nguyên tắc Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, BĐBP là lực lượng chuyên trách, nòng cốt. Do vậy, trên cơ sở quán triệt và triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, chúng tôi chú trọng tham mưu, đề xuất các chủ trương, biện pháp giúp Tỉnh ủy, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành và nhân dân xây dựng nền biên phòng toàn dân (BPTD), phù hợp với yêu cầu công tác biên phòng, đặc điểm của địa phương. Tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo chuyên trách thực hiện "Ngày BPTD", do đồng chí Phó Chủ tịch UBND làm Trưởng ban, đồng chí Phó Chủ tịch MTTQ tỉnh làm Phó trưởng ban, Chủ tịch 4 huyện biên giới (Phong Thổ, Sìn Hồ, Nậm Nhùn, Mường Tè) và Trưởng các ngành làm thành viên, Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh làm thường trực. Với thành phần như vậy, Ban Chỉ đạo đã phát huy tốt vai trò và hiệu lực trong việc quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết, chị thị, kế hoạch công tác biên phòng của tỉnh; đồng thời, tham mưu, đề xuất cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả để nâng cao chất lượng công tác này.
Cùng với đó, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh chú trọng xây dựng nghị quyết chuyên đề, các kế hoạch công tác vận động quần chúng cho từng giai đoạn và từng năm. Theo đó, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ công tác vận động quần chúng cho đội ngũ cán bộ chuyên trách và các đồng chí là chính trị viên, chính trị viên phó, trợ lý chính trị. Ban Bộ Chỉ huy Quân sự huyện biên giới, cũng xây dựng kế hoạch cụ thể, chủ động phối hợp với các cấp, các ban, ngành, đoàn thể địa phương triển khai công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, với nhũng nội dung, hình thức phù hợp, để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương đến với người dân. Tùy đặc điểm địa bàn, các Ban Chỉ huy Quân sự huyện cũng có nhiều sáng kiến trong công tác này, như: phối hợp với Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn tổ chức các buổi nói chuyện về lịch sử truyền thống anh hùng của địa phương; tham gia các cuộc thi tìm hiếu về Luật Biên giới quốc gia; hội thi, hội thao văn nghệ, thể dục, thể thao quốc phòng. Đối với vùng có đồng bào dân tộc thiểu số ảnh hưởng tôn giáo, các đồn cũng phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức các buổi trao đổi về Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; qua đó, động viên bà con nhân dân các dân tộc thực hiện, tích cực tham gia nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Một nội dung quan trọng trong công tác này được lãnh đạo, chỉ huy các cấp của Bộ CHQS tỉnh và Bộ Chỉ huy BĐBP Lai Châu hết sức coi trọng là tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng, củng cố cơ sở chính trị, nhất là nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở; với nhiều mô hình xóa đói giảm nghèo; cùng em cắp sách đến trường... Các mô hình này hoạt động hiệu quả và đang được nhân rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Mấy năm qua, chính quyền và nhân dân các xã biên giới đã cung cấp cho, cơ quan quân sự, BĐBP hàng nghìn tin có giá trị cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm; đã phát hiện, xử lý hàng chục vụ phạm pháp hình sự về an ninh trật tự, gian lận thương mại; ma túy, buôn bán phụ nữ qua biên giới, xuất nhập cảnh trái phép; hòa giải hàng trăm vụ mâu thuẫn nội bộ nhân dân, không để nảy sinh phức tạp ở địa phương... góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới trên địa bàn.
Hai là, tập trung xây dựng thế trận BPTD gắn với thế trận quốc phòng toàn dân (QPTD), an ninh nhân dân (ANND) vững chắc trên địa bàn. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Bộ CHQS tỉnh và Bộ Chỉ huy BĐBP Lai Châu đã tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương các chủ trương, biện pháp để củng cố thế trận BPTD gắn với thế trận QPTD trên địa bàn; nhất là gắn kết yêu cầu nhiệm vụ biên phòng, bảo vệ biên giới quốc gia trong quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) của tỉnh, của các ngành, các xã biên giới. Theo đó, từ khi xây dựng quy hoạch và trong quá trình thi công các công trình trọng điểm của tỉnh, như: Dự án xây dựng hệ thống đường giao thông liên thôn, liên xã, đường tuần tra biên giới...
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh đã tích cực phối hợp với các ban, ngành của tỉnh tiến hành thẩm định để các công trình này vừa đáp ứng được mục tiêu phát triển KT-XH, đồng thời cũng bảo đảm nâng cao khả năng phòng thủ, bảo vệ địa bàn theo yêu cầu của công tác biên phòng. Tương tự như vậy, các dự án cũng đều được tính toán kỹ lưỡng để vừa đảm bảo được lợi ích kinh tế của ngành, phát triển kinh tế các xã biên giới với tăng cường lực lượng và phương tiện cho nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trên địa bàn tỉnh.
Trên cơ sở nắm vững nhiệm vụ, tình hình địa bàn, Bộ CHQS tỉnh và Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh đã xây dựng và đã được cấp trên phê duyệt “Quyết tâm bảo vệ Tổ quốc XHCN” và "Quyết tâm bảo vệ biên giới"... phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, xây dựng khu vực phòng thủ của địa phương, yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ an ninh, chủ quyền biên giới quốc gia. Cùng với đó, hai lực lượng cũng chỉ đạo các đơn vị tích cực phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, nhất là cơ quan công an, thường xuyên tổ chức rà soát, kịp thời điều chỉnh các kế hoạch, phương án hiệp đồng tác chiến; tổ chức giao ban định kỳ để trao đổi thông tin, bàn các biện pháp hiệp đồng trinh sát nắm tình hình, quản lý địa bàn, đấu tranh ngăn chặn, xử lý các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh, ổn định địa bàn. BĐBP Lai Châu cũng phối hợp chặt chẽ với BĐBP Điện Biên, Lào Cai tổ chức tuần tra, bảo vệ các cột mốc ở khu vực tiếp giáp giữa hai đầu tỉnh; phối hợp và các lực lượng khác hoạt động tổ chức tuần tra, bảo vệ chủ quyền, ngăn chặn các hoạt động vi phạm và tham gia phòng chống lụt bão, cứu hộ, cứu nạn.
Ba là, tiếp tục chăm lo xây dựng lực lượng BĐBP tỉnh vững mạnh về mọi mặt, đủ khả năng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới. Do đặc thù nhiệm vụ nên các đồn, trạm của Biên phòng Lai Châu bố trí phân tán trong 4 huyện biên giới của tỉnh, hoạt động tương đối độc lập. Hiện nay, tình hình an ninh, trật tự trên tuyến biên giới của tỉnh cơ bản giữ được ổn định; nhưng từng lúc, từng nơi, các loại tội phạm hình sự, như: buôn lậu hàng cấm; các hành động xâm phạm chủ quyền, các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch vẫn xảy ra làm cho tình hình an ninh, trật tự xã hội trên khu vực biên giới tiềm ẩn những vấn đề phức tạp. Bởi vậy, việc xây dựng BĐBP tỉnh vững mạnh về mọi mặt, có chất lượng tổng hợp, trình độ chiến đấu cao là nguyên tắc và là yêu cầu cấp thiết, bảo đảm cho đơn vị hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Theo đó, BĐBP Lai Châu đã và đang coi trọng hàng đầu việc xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưửng, thông qua việc duy trì học tập nghiêm túc các chương trình giáo dục chính trị theo quy định; đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng gắn với thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", hướng mạnh vào "làm theo" trong từng việc làm cụ thể của cá nhân và của đơn vị; xây dựng tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài...
Trong huấn luyện quân sự, chú trọng kết hợp huấn luyện chiến thuật binh chủng hợp thành, huấn luyện chuyên ngành (nhất là cấp đồn, các tổ, đội) với giáo dục chính trị, huấn luyện điều lệnh, rèn luyện thể lực, vũ thuật, huấn luyện hậu cần, kỹ thuật và các mặt khác, đảm bảo từng phân đội (đồn, trạm) có đủ khả năng quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới trong thời bình, thực hành tác chiến độc lập và tác chiến hiệp đồng với các lực lượng khác trong thế trận QPTD, chiến tranh nhân dân trên địa bàn khi có chiến tranh.
Do thực hiện đồng bộ các biện pháp nên công tác giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự của hai lực lượng quân sự và BĐBP Lai Châu đều đạt kết quả tốt: liên tục nhiều năm có 100% cán bộ, chiến sỹ đạt yêu cầu, trong đó có 75% trở lên đạt khá giỏi; 100% cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng; đơn vị không có vi phạm kỷ luật nghiêm trọng; sức mạnh tổng hợp, trình độ chiến đấu được nâng cao, thực sự phát huy tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới của quốc gia trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Kiến nghị - đề xuất
Thời gian tới, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới tiềm ẩn diễn biến phức tạp, do vậy các nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng BĐBP cần được quy định đầy đủ nhằm thể chế hóa toàn diện kịp thời chủ trương, quan điểm, nguyên tắc của Đảng về bảo vệ BGQG, luật hóa vị trí chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BĐBP, nhiệm vụ biên phòng, các hình thức quản lý bảo vệ biên giới, biện pháp công tác biên phòng... là cần thiết, phù hợp với yêu cầu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, BGQG trong tình hình mới. Do đó, cần thiết phải xây dựng dự thảo Luật Biên phòng Việt Nam có phạm vi điều chỉnh mở rộng hơn so với Pháp lệnh BĐBP, giữ vũng ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, khắc phục được những hạn chế, bất cập, hạn chế những mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật, qua đó tạo thuận tiện trong thực thi và nâng cao hiệu quả công tác biên phòng trong thời gian tới.
(*) Tiêu đề bài viết do Báo Biên phòng đặt