Biên phòng - Cả điểm trường có 20 học sinh, gồm 2 cấp học mầm non và tiểu học, trong đó, học sinh mầm non chiếm một nửa. Bậc tiểu học chia đều cho 3 lớp từ lớp 3 đến 5, mỗi lớp có 2 em học sinh; lớp 2 nhỉnh hơn, 4 học sinh. 3 giáo viên (1 nam, 2 nữ) sống chung trong căn phòng nhỏ hẹp. Điểm trường đó có tên là Cuôi, thuộc địa phận xã Hướng Lập, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, cách thị trấn Khe Sanh 80km về hướng Bắc.

Những lớp học “nhiều trong một”
Bản Cuôi có 26 hộ, 117 nhân khẩu, là một trong những bản xa xôi nhất của tỉnh Quảng Trị. Bản Cuôi khó khăn, đói nghèo, nhiều thế hệ người dân không biết chữ. Điểm trường Cuôi thuộc Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Hướng Lập. Hơn 20 năm qua, đã có nhiều thế hệ thầy, cô giáo gắn bó với điểm trường heo hút này để dạy con chữ cho các em. Thầy Nguyễn Hồ Phong, Phó hiệu trưởng đi cùng với chúng tôi vào điểm trường, tâm sự: “Do điều kiện đi lại khó khăn, từ Cuôi ra học ở xã gần 20 cây số, các em nhỏ không thể theo học được, nên chúng tôi mới đưa giáo viên về cắm bản”.
Thầy Hồ Quang Vinh có thâm niên 11 năm dạy học ở Hướng Lập, nói: “Năm 2018, tôi được phân công vào dạy ở điểm trường Cuôi. So với trước đây thì đường sá đi lại tốt hơn rất nhiều. Tôi dạy 4 em học sinh lớp 2 và 2 học sinh lớp 3. Mặc dù lớp ghép, nhưng do ít học sinh nên cũng có điều kiện kèm cặp các em học hành đảm bảo chất lượng học tập”.
Phòng học chừng 30 mét vuông, với chiếc bảng kẻ làm đôi; bên này để dạy 4 em học sinh lớp 2 học Toán; bên kia 2 em lớp 3 học Tiếng Việt. Thầy Vinh say sưa giảng bài cho học sinh, lúc dịch qua phải dạy lớp 2, lúc chuyển sang trái chỉ bảo cho các em lớp 3. Kế bên, lớp học của cô giáo Nguyễn Thị Hồng Nhung cũng chỉ có 2 học sinh lớp 4 và 2 học sinh lớp 5. Phòng học của học sinh lớp cô Nhung được chia ra từ lớp thầy Vinh bằng tấm ri-đô màu xanh, do các cô thầy tự chế.
Cô giáo Nguyễn Thị Hồng Nhung tâm sự với chúng tôi: “Dạy lớp ghép nên cứ hết bên này lại xoay sang bên kia, cũng khá vất vả. Phòng học hẹp, không có vật cách âm cũng khó khăn nhiều cho việc dạy và học. Điều đáng mừng là các em học hành khá chăm chỉ và tiến bộ, tôi cũng quên mệt nhọc để cố gắng dạy các em”.
Phòng học chật chội, mùa mưa nước xối lên mái tôn, thầy giảng, trò không nghe được bởi rất ồn; mùa nắng mái tôn hấp xuống, thầy trò như được tắm suối bởi mồ hôi. Trong chừng 90 mét vuông của điểm trường Cuôi còn có thêm 1 lớp học mầm non với 10 cháu. Phòng học cũng được ngăn ra từ lớp tiểu học bởi 1 tấm vải. Thầy Hồ Quang Vinh tâm sự: “Bên mầm non không có trường nên mượn nhờ điểm trường Cuôi để dạy, khó khăn thì chịu với nhau chứ biết răng chừ. Nhà ở giáo viên là cái chái, dựa vào vách lớp học, trên che tôn”.

Níu giữ bằng hai chữ... “yêu nghề”
Hơn 10 năm dạy học ở vùng cao Hướng Hóa, thầy Hồ Quang Vinh chưa từng được ở trong một ngôi nhà đúng nghĩa. Nhà ở của thầy Vinh bây giờ tại điểm trường Cuôi là căn phòng được vây lại bằng tôn chừng 25 mét vuông. Nó không chỉ dành riêng cho thầy Vinh, mà còn là nơi cư ngụ của 2 nữ giáo viên. Chiếc giường ngủ của thầy Vinh được ngăn với giường 2 giáo viên nữ bằng 1 tấm ri-đô màu hồng. Diện tích còn lại nhường chỗ cho xô chậu, bát đĩa, xoong nồi và một số vật dụng khác.
Thấy tôi ái ngại khi nhìn 2 chiếc giường đặt cạnh nhau và quan sát mọi vật xung quanh, thầy Vinh nói: “Mọi thứ ở đây không dễ dàng. Điện lưới kéo vào rồi, nhưng sóng điện thoại vẫn còn khó lắm, muốn gọi về cho gia đình phải đi gần 1km, phải chịu sự “tra tấn” của sên, vắt rừng. Không phải lúc nào cũng được gặp vợ con qua điện thoại”.
Thầy Vinh, cô Nhung kể cho chúng tôi, những giây phút nghỉ ngơi, mọi người trồng rau, xuống suối thả lưới bắt cá để cải thiện bữa ăn. Cuộc sống của giáo viên cắm bản nếu không được níu giữ bằng hai chữ “yêu nghề” thì họ sẽ không lựa chọn công việc này. Thầy Hồ Quang Vinh bảo: “Tôi vẫn muốn cố hết sức mình để dạy chữ cho học sinh vùng cao. Nhiều giáo viên cắm bản nếu không yêu nghề thì họ sẽ không lưu luyến nơi này. Cũng may, ở đây, bà con với giáo viên như người nhà, có cơm ăn cơm, có cá ăn cá”.
Cô Nhung chia sẻ thêm: “Dù khó khăn thế nào, chúng tôi cũng khắc phục được, chỉ mong rằng, khi có điều kiện thì ở Cuôi có được ngôi trường khang trang, giáo viên có được chỗ ở, nước sạch, nhà vệ sinh... để yên tâm công tác”. Tuy nhiên, thầy Nguyễn Hồ Phong thừa nhận: “So với Tà Păng và Cha Lỳ thì Cuôi còn đỡ hơn, bởi còn có lớp, có điện, có trường...”. Điểm trường Cuôi đã thế, chúng tôi không thể hình dung được sự “đỡ hơn” trong câu nói của thầy Phong về những ngôi trường hun hút sâu ở vùng biên này sẽ còn như thế nào nữa.
Rời bản Cuôi, chúng tôi xe trước xe sau, nhưng vẫn không quên ngoái đầu nhìn lại. Và phía sau đó, những thầy, cô giáo ở bản Cuôi vẫn nhìn theo chúng tôi. Men theo con đường đất, tôi cứ mong mùa mưa bớt rớt nước xuống con đường này. Vì điều đó sẽ khiến các thầy, cô ở đây không được về nhà khi đường mưa lầy lội. Nếu có thể về thì sức họ cũng bị mòn đi. Tuổi thanh xuân của thầy Vinh, cô Nhung trút hết cho nơi này và một lúc nào đấy, núi rừng có còn nhắc đến họ?
Lê Minh Hà