Biên phòng - Khảo sát tại Việt Nam cho thấy, nuôi hổ không giúp giảm áp lực săn bắt hổ. Thực tế, nỗ lực bảo vệ hổ của Việt Nam đang gặp rất nhiều thách thức, đặc biệt là những khó khăn trong giải quyết tình trạng nuôi nhốt, buôn bán, tiêu thụ hổ và các sản phẩm từ hổ trái phép.

Trong khi thế giới chỉ còn khoảng 3.900 cá thể hổ hoang dã thì kết quả điều tra năm 2017 của Cơ quan Điều tra môi trường (EIA) ước tính, có hơn 8.000 cá thể hổ đang bị nuôi nhốt tại Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Việt Nam trong các cơ sở thương mại từ nhỏ tới lớn. Nhiều bằng chứng cho thấy, hổ nuôi nhốt được đưa vào đường dây buôn bán, chủ yếu phục vụ nhu cầu làm thuốc và đồ trang trí tại Trung Quốc và Việt Nam. Theo báo cáo của EIA, trong thập kỷ qua, khoảng 40% số hổ bị bắt giữ do buôn bán bất hợp pháp có nguồn gốc nuôi nhốt.
Nuôi hổ khuyến khích thêm nhu cầu tiêu thụ hổ
Ông Vương Tiến Mạnh, Phó Giám đốc Cơ quan Quản lý Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) Việt Nam cho biết, Việt Nam hiện có hơn 300 cá thể hổ đang được nuôi nhốt hợp pháp tại các trang trại, cơ sở nuôi nhốt. Tuy nhiên, số lượng hổ thực tế đang được nuôi nhốt có thể lớn hơn nhiều con số được thống kê. Nuôi hổ vẫn được biện minh là một giải pháp giúp giảm áp lực đối với quần thể hổ hoang dã, tuy nhiên, tác động thực sự của hoạt động này đối với nạn săn trộm và nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm từ hổ chưa bao giờ được đánh giá.
Nói về giá trị của việc nuôi hổ, cũng như tác động của nó tới tình trạng săn bắt hổ, bà Nguyễn Đào Ngọc Vân, Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) khẳng định: “Việc nuôi nhốt hổ trái phép không những không có giá trị về bảo tồn, mà còn làm hủy hoại những nỗ lực bảo tồn và thực thi pháp luật. Những cá thể hổ bị nuôi nhốt này không thể tái thả về với tự nhiên. Bảo tồn trong tự nhiên là phương pháp bảo tồn hổ ít tốn kém nhất, hiệu quả nhất và đảm bảo được hệ sinh thái”.
Nhiều người Việt Nam tin rằng, các sản phẩm từ hổ như cao hổ có công năng tuyệt vời trong việc nâng cao sức khỏe, chữa bệnh. Do đó, nhu cầu tiêu thụ cao hổ là rất lớn. Điều đó kéo theo sự gia tăng tình trạng nuôi nhốt hổ trái phép để nấu cao. Trong nghiên cứu mới nhất về tình trạng nuôi nhốt hổ, có 228 người được phỏng vấn bao gồm 182 người tiêu dùng cao hổ và 46 người có ý định tiêu dùng cao hổ tại Hà Nội cho thấy, khoảng 40% sử dụng cao hổ để điều trị xương và 32% sử dụng vì lợi ích sức khỏe nói chung, một số dùng cao hổ với mục đích ngăn ngừa bệnh tật. Gần một nửa số người được hỏi (46%) thừa nhận họ hoặc các thành viên trong gia đình đã mua cao hổ, trong khi 48% tuyên bố nhận cao hổ như một món quà. Đáng chú ý là 44,3% những người được hỏi tin rằng sử dụng 100g cao hổ sẽ không chịu các chế tài pháp lý. Phần lớn những người được khảo sát cũng sử dụng các loại thuốc và thực phẩm từ các loài động vật hoang dã quý hiếm khác như sừng tê giác (43%), mật gấu (89%), mật bò tót (37%), nhung hươu (45%), thịt và vảy tê tê (25,4%), vây cá mập (50%).
Đặc biệt, nghiên cứu cho thấy, người tiêu dùng vẫn đặc biệt ưa thích các sản phẩm cao hổ hoang dã, bất kể đó có thể là sản phẩm bất hợp pháp và có giá cao hơn các sản phẩm có nguồn gốc từ hổ nuôi hợp pháp. Phát hiện này cho thấy, nuôi nhốt hổ không những không làm giảm áp lực đối với quần thể hổ hoang dã, mà còn khuyến khích nhu cầu tiêu thụ các bộ phận từ hổ - hoàn toàn phù hợp với lời cảnh báo và kêu gọi của các nhà bảo tồn cùng chuyên gia động vật hoang dã rằng cần loại bỏ càng sớm càng tốt việc nuôi nhốt hổ.

Cần xử lý từ gốc của vấn đề
Nuôi nhốt hổ nhằm mục đích thương mại lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc vào những năm 1980 trong nỗ lực giảm nạn săn trộm hổ hoang dã, sau đó, lan dần sang các quốc gia lân cận. Các cơ sở chăn nuôi hiện có quy mô từ nhỏ cho tới các địa điểm được chính phủ cấp phép dưới chiêu bài du lịch và các trang trại nuôi nhốt hàng trăm cá thể hổ.
Theo anh Đặng Vũ Hoài Nam, nghiên cứu sinh tại Đại học Copenhagen (Đan Mạch) và tác giả chính của nghiên cứu về tác động của việc nuôi nhốt hổ mới công bố trên Tạp chí Bảo tồn thiên nhiên, điều đáng lo ngại là những người được phỏng vấn chia sẻ thẳng thắn về sở thích tiêu dùng cao hổ vì họ cho rằng, việc sở hữu cao hổ mang lại rủi ro tối thiểu ở Việt Nam. Cao hổ vốn khó xác định ADN từ cá thể hổ riêng biệt nên hiếm khi hành vi sở hữu bị khởi tố. Thay vào đó, các cơ quan chức năng thường truy quét những đối tượng bị bắt do buôn bán hổ hoặc các bộ phận từ hổ.
Có thể nhận thấy, hiện có rất nhiều bài viết về công dụng của cao hổ vẫn được tuyên truyền, quảng cáo rầm rộ trên mạng Internet, các trang thông tin điện tử và các kênh mạng xã hội mà không hề bị kiểm duyệt, xử phạt. Điều này vô hình trung củng cố thêm niềm tin của người dân về công dụng của cao hổ, khiến nhu cầu tiêu dùng cao hổ luôn tăng chứ không giảm.
Theo anh Nam, có rất nhiều lỗ hổng và kẽ hở trong luật pháp ở Việt Nam mà những người kinh doanh sản phẩm từ hổ có thể lợi dụng để buôn bán sản phẩm bất hợp pháp này. Anh Nam cho rằng, cần thiết kế các chiến dịch thay đổi hành vi của người tiêu dùng sang các lựa chọn y học thay thế bền vững hơn. Người mua cao hổ thường là trung niên, giàu có và có mối quan hệ tốt, hay mua hàng xa xỉ và thuốc cổ truyền, đồng thời, có kiến thức giúp họ tránh được các rủi ro pháp lý và sự trừng phạt của pháp luật. Do vậy, các chiến dịch nên được thiết kế dựa trên những hiểu biết sâu sắc về những người mua cao hổ, chứ không phải công chúng nói chung, bởi vì sản phẩm này chỉ được một nhóm người tiêu dùng cụ thể săn lùng.
Theo các chuyên gia động vật hoang dã, trong khi các chiến dịch thay đổi hành vi và loại bỏ dần việc nuôi hổ là những giải pháp có thể giúp hổ hoang dã về lâu dài thì việc kiểm tra, rà soát ngay lập tức tất cả những cá thể hổ đang được nuôi nhốt là rất quan trọng. Cơ sở dữ liệu ADN và dữ liệu nhận dạng sọc vằn sẽ giúp xác định nguồn gốc của bất kỳ cá thể hổ nào bị buôn bán từ các cơ sở nuôi nhốt. Song song với việc xây dựng cơ sở dữ liệu hổ nuôi, cần phục hồi các quần thể hổ hoang dã.
An Nhiên