Biên phòng - Nếu để điểm tên những cây bút sáng tác về dân tộc thiểu số ở “Thủ đô gió ngàn” thì không thể không nhắc tới nữ nhà văn quân đội người dân tộc Tày - Bùi Thị Như Lan. Chị là lớp nhà văn trưởng thành có nhiều đóng góp cho sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại.

Là một trong những nữ nhà văn đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, cây bút nữ dân tộc thiểu số ấy thể hiện sức viết “khỏe” qua số lượng tác phẩm mà chị đã xuất bản. Đó là 8 tập truyện ngắn, 1 tập bút ký, 1 tiểu thuyết.
Theo lời nhà phê bình văn học Lâm Tiến thì “Như Lan là cây bút dân tộc thiểu số đầu tiên viết về người lính, những tác phẩm của chị mang đậm màu sắc dân tộc và miền núi, và có “chất lính” khá rõ rệt”. Là dân tộc Tày “chính hiệu”, nên dường như bản tính thật thà, thẳng thắn của người dân tộc đã “ngấm” vào trong những sáng tác của chị. Và chất dân tộc miền núi thể hiện ngay trên những tên truyện của chị như: Mùa hoa gắm, Lời Sli vắt ngang núi, Bồng bềnh sương núi, Cây thiêng trong lũng núi... Bên cạnh đó, thế giới nhân vật trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan cũng đa phần là người lính vùng dân tộc thiểu số, miền núi... (trong 8 tập truyện ngắn của chị với 66 truyện thì có hơn 30 truyện viết về người dân tộc thiểu số, người lính).
Những ai đã từng đọc truyện của nhà văn Như Lan sẽ khó có thể quên được những sắc màu, đường nét, “mùi vị” rất riêng của không gian rừng núi. Có thể kể đến chất dân gian trong truyện ngắn “Hoa mía” đã tạo một không khí như nửa thực, nửa mơ; nửa hiện đại, nửa hoang sơ; nửa hiện thực, nửa huyền ảo. Rồi truyện “Tiếng kèn Pí lè” lại phản ánh cuộc sống mưu sinh vất vả của người miền núi, nhưng cũng đầy sự lãng mạn, nặng tình yêu thương, bao dung, nhân ái và cao thượng. Và truyện “Lá bùa đỏ” - lá bùa định mệnh biến gã trai bản tên Lình hồn nhiên như cây cỏ trải những thăng trầm, lĩnh án tù bởi sự thiếu hiểu biết về pháp luật. Sự trở về sau khi thụ án của Lình đã khép lại một trang buồn để mở tiếp những trang vui. Tuy nhiên, kết thúc truyện của Bùi Thị Như Lan không phải lúc nào cũng có hậu, nhiều truyện kết thúc bằng sự mất mát, thương đau. Có thể nói, truyện của chị phản ánh được cuộc sống của người dân tộc miền núi với những cảnh đời, số phận trong mưu sinh vất vả, nhưng cũng đầy lãng mạn và triết lý về lẽ đời.
Bản sắc dân tộc đậm đà trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan được thể hiện từ nội dung phản ánh đến nghệ thuật thể hiện. Chị hướng ngòi bút của mình vào việc phản ánh những nét đẹp về thiên nhiên cùng những phong tục tập quán mang đậm bản sắc văn hóa tộc thiểu số Việt Nam. Với cách sử dụng ngôn từ, lời văn nghệ thuật trong tác phẩm, chị đã tạo cho mình một sức hấp dẫn riêng, dung dị, đằm thắm và “không thể lẫn lộn”. Tác giả đã thành công trong việc sử dụng hình ảnh giàu chất nhạc: “Sương bồng bềnh, dênh dang, từng vốc, từng nắm ùa ập vào người lành lạnh, rồi lại nhẹ nhàng tản ra, nhởn nhơ đậu vào mái tóc dài búi nặng trịch sau gáy của em, giống như trò chơi đuổi bắt” (Mây trôi). Bùi Thị Như Lan đã phát huy vẻ đẹp ngôn ngữ dân tộc trong không gian nghệ thuật đặc trưng là phong cảnh và cuộc sống miền núi. Khả năng sáng tạo trong ngôn từ của chị đã làm giàu cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Điều đó khiến tác phẩm của chị có một nét rất riêng bên cạnh những nét chung của các cây bút dân tộc thiểu số khác.
Vốn là một người phụ nữ dân tộc thiểu số, lại là một người lính, là nhà văn, nhà báo Quân đội (Báo Quân khu 1), Bùi Thị Như Lan am hiểu sâu về con người và môi trường sống ở vùng cao. Đọc tác phẩm của chị qua cách xưng hô thân mật trong gia đình người dân tộc thiểu số như pá (bố), mé (mẹ đẻ)..., ta thấy được cái hồn của nhà văn, cái hồn của những con người miền núi. Nhà văn Ma Trường Nguyên, Chủ tịch Hội Văn học Dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên nhận xét: “Như Lan là một trong những cây bút viết truyện ngắn xuất sắc của tỉnh Thái Nguyên. Chất dân tộc thiểu số trong sáng tác của Như Lan rất đặc biệt, rất riêng!”.
Nhà văn Bùi Thị Như Lan đã giành được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi sáng tác văn học và tên tuổi của chị còn được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Phương Vy