Biên phòng - Theo số liệu mới nhất, xã Ia Nan, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai hiện có 251 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 13,96% dân số. Đây là con số “chấp nhận được”, bởi Ia Nan là xã biên giới có xuất phát điểm thấp, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, thường xuyên phải chịu thiệt nặng nề do thiên tai gây nên. Tuy nhiên, đó là mặt bằng chung, còn cụ thể công tác xóa đói giảm nghèo ở địa phương này vẫn đang bộc lộ những vấn đề nan giải. Câu chuyện của làng Tung, một trong 3 ngôi làng đồng bào dân tộc thiểu số (DTT) Jrai ở xã là một minh chứng...
Hơn thập kỷ, cây lúa nước vẫn “không chịu”... bén rễ
Cây lúa nước “đến” với làng Tung từ khá sớm và có thể khẳng định đây là sự lựa chọn đúng đắn. Thứ nhất, đó là việc tận dụng lợi thế về đất đai, nguồn nước tưới tiêu khi khu dân cư này “sở hữu” nhiều khu vực trũng để phát triển cánh đồng lúa nước, góp phần bảo đảm an ninh lương thực tại chỗ. Tiếp đến là những tác động tích cực về mặt xã hội cũng như tư duy sản xuất của bà con, bởi một khi cây lúa nước có “chỗ đứng” nơi đất làng sẽ góp phần hạn chế nạn du canh, chặt phá rừng làm nương rẫy, đồng thời phá thế độc canh cây lúa rẫy, mở ra nhiều cơ hội phát triển các loại cây hàng hóa mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Và, cuối cùng là yếu tố không thể không nhắc đến, đó là sự tiếp sức của người lính đứng chân trên địa bàn trong “cuộc cách mạng” đưa bà con xuống... ruộng.
Cây lúa nước ở làng Tung được Đồn BP Ia Nan, BĐBP Gia Lai triển khai lần đầu ở những nhóm hộ nhỏ lẻ và ngay sau đó, nó trở thành một phong trào lớn nhờ vào sự vào cuộc quyết liệt của Công ty 72, Binh đoàn 15. Ngày đó, để triển khai “chiến dịch” đưa bà con làm ruộng nước, Công ty 72 phối hợp với chính quyền địa phương và đồn BP tổ chức đồng loạt ra quân khai hoang phục hóa cánh đồng, nạo vét kênh mương phục vụ tưới tiêu.
Sau khi hoàn thành công đoạn đầu tiên và hỗ trợ trọn gói chi phí về máy móc, cây giống, phân bón, thuốc trừ sâu..., bộ đội lại trực tiếp “xắn ống quần” xuống đồng lao động sản xuất với bà con. Cũng như một đứa trẻ mới ngày đầu đến trường, phải cầm tay tập viết, bà con làng Tung được bộ đội hướng dẫn chi tiết từ cách làm đất, xuống giống, đến làm cỏ, bỏ phân, thậm chí khi thu hoạch lúa về phải phơi phóng, bảo quản ra sao để đảm bảo chất lượng lương thực. Vụ đầu tiên, bà con chưa tiếp cận được cách làm, bộ đội lại tiếp tục hỗ trợ y như thế trong vụ thứ hai, thứ ba với ước muốn cây lúa nước sớm muộn cũng sẽ “bén rễ” nơi đất làng. Tuy nhiên, toàn bộ công sức, tiền của này hóa ra đã tạo tâm lý trông chờ, ỷ lại của bà con.
Cây lúa nước èo uột khi vắng bóng những người lính, nên suốt một thập kỷ qua, nó không thể phát triển, khiến cho phần lớn diện tích quay trở lại với thời kỳ hoang hóa. Nhiều người cho rằng, bà con “không thích” canh tác cây lúa nước, song nên nhớ ở làng Nú, làng Sơn bên cạnh (thuộc xã Ia Nan), nhiều gia đình (cũng là người Jrai) muốn sản xuất lúa nước phải sang tận xã Ia Pnôn kiếm đất để làm và đạt năng suất rất cao. Điển hình như gia đình ông Rơ Châm Miêu, Siu H’Lang, Rơ Châm Tiên (làng Nú) mỗi năm thu hoạch hàng trăm bao lúa mà chẳng cần đến một sự trợ giúp nào cả. Hai ngôi làng này mỗi lần nhìn sang làng Tung lại thầm ước, nếu có điều kiện như thế thì chả bao giờ sợ thiếu lương thực.
Tạo điều kiện tối đa, nhưng kiên quyết không “đi câu” thay
Hơn chục năm, với không ít công sức, tiền của, nhưng cánh đồng lúa nước ở làng Tung vẫn trong trạng thái “suy dinh dưỡng”. Đây là nỗi trăn trở của cấp ủy Đảng, chính quyền huyện Đức Cơ và xã Ia Nan, bởi “nút thắt” đã được tìm thấy nhưng “tháo gỡ” nó bằng cách nào.
Ông Phạm Văn Cường, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Đức Cơ cho biết: “Địa phương tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp nhân dân làng Tung phát triển diện tích trồng lúa nước, như đầu tư kiên cố hóa đập thủy lợi, kênh mương tưới tiêu cũng như hỗ trợ bà con về kỹ thuật, lúa giống, nhưng kiên quyết không làm thay. Chúng tôi chỉ đạo xã cho các gia đình có đất trong khu vực phải ký cam kết làm lúa nước. Khó chỗ nào, giúp bà con chỗ đó, nhưng họ phải là người trực tiếp bám ruộng bám đồng, để khắc phục tâm lý trông chờ của bà con...”
Rõ ràng, quyết tâm “đưa bà con xuống đồng” của địa phương là có thừa, đầu tư cũng hết sức bài bản, trong đó đáng kể nhất là công trình nâng cấp, kiên cố hóa đập thủy lợi và hệ thống mương tưới tiêu trị giá khoảng 5 tỷ đồng từ nguồn ngân sách của huyện. Với quy mô chưa đến 30 hộ dân canh tác trên khu vực cánh đồng (khu A) của làng Tung thì số tiền nêu trên không phải là nhỏ. Đó còn chưa tính đến công sức, tiền của của các ban, ngành, đoàn thể, đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn trong suốt hàng thập kỷ qua.
Theo thông tin chúng tôi ghi nhận được, tới thời điểm này, đã có 28 hộ gia đình ở làng Tung ký vào bản cam kết làm lúa nước với những “quy định” rất chặt chẽ. Đây là việc cần làm để mang lại lợi ích cho nhân dân.
Và, cái nghèo không chỉ là chuyện sợ... “ướt chân”
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, trong số 251 hộ nghèo ở xã Ia Nan thì có đến hơn 1/3 là những “chủ nhân” đến từ làng Tung. Không phải không có cơ hội phát triển, bởi ngoài ưu tiên mở rộng diện tích sản xuất lúa nước, thì ngôi làng của 190 hộ gia đình đồng bào DTTS này hiện có gần 80 con em đang làm công nhân cao su ở đội 10, Công ty 72 có mức thu nhập ổn định, quỹ đất sản xuất dồi dào, có tiềm năng phát triển chăn nuôi...
Nói như thế để thấy, cái nghèo ở làng Tung không chỉ đến từ chuyện sợ... “ướt chân” khi phải làm lúa nước, mà còn có một số nguyên nhân khác. Đại úy Lê Minh Hải, Đội trưởng Đội Vận động quần chúng, Đồn BP Ia Nan, người đã có 6 năm công tác tại địa bàn trăn trở: “Cứ đến mùa thu hoạch nông sản là nhà nào trong làng cũng mua sắm, nhiều nhất vẫn là xe máy. Có những chiếc 50, 70 mươi triệu đồng, con đòi mua là bố mẹ chiều theo ngay. Nhiều hộ gia đình, gạo ăn còn thiếu nhưng xe máy lúc nào cũng thừa...”.
Hệ quả của việc chi tiêu không hợp lý là không có tích lũy, lại phải gánh thêm nhiều khoản chi phí như sửa chữa, bảo dưỡng, tiêu hao nhiên liệu... Đó là chưa nói đến chuyện có sẵn phương tiện đi lại và giao lưu nên khi xe “uống” thì người cũng... uống theo, tốn kém đủ đường. Có thể kể ra đây một số trường hợp như gia đình ông Rơ Mah Ol và Rơ Lan Phiel, mặc dù thuộc diện hộ nghèo, nhưng lúc nào cũng “sở hữu” 4 chiếc xe máy trong nhà. Nếu tính bình quân mỗi tháng chi phí xăng xe, sửa chữa từ 300- 500 ngàn đồng/chiếc thì những gia đình này phải mất gần 20 triệu đồng/năm. Quá tốn kém...
Câu chuyện lúa nước và vấn đề chi tiêu kiểu “vung tay quá trán” chỉ là hai trong nhiều nguyên nhân khiến cho cái nghèo cứ mãi “luẩn quẩn” trong làng Tung. “Nút thắt” đã được nhận dạng, giờ là lúc chính quyền địa phương và các ban ngành phải tìm cách tháo gỡ.
Thái Kim Nga