Biên phòng - Ngày Giải phóng Thủ đô 10-10-1954, không chỉ ghi dấu một chặng đường phát triển của Thủ đô Hà Nội, mà còn là mốc son chói lọi trong lịch sử dựng và giữ nước của cha ông ta. Trước tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân và dân ta trong suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ, đặc biệt là sau thất bại tại Điện Biên Phủ năm 1954, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Geneve (21-7-1954) công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; chấp nhận rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam.

Chuẩn bị chu đáo cho tiếp quản
Theo Hiệp định Geneve, Hà Nội nằm trong khu vực tập kết 80 ngày của quân đội Pháp. Đề phòng âm mưu của Pháp lợi dụng thời gian này để phá hoại các cơ sở kinh tế, văn hóa, lôi kéo người dân di cư vào Nam, Hà Nội khẩn trương chuẩn bị cho việc tiếp quản. Công việc này đòi hỏi phải chuẩn bị chu đáo, có sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với vũ trang, giữa lực lượng kháng chiến ở ngoài và lực lượng kháng chiến trong thành phố, giữa Thủ đô với cả nước.
Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng cử đồng chí Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương, Xuân Thủy, Tố Hữu trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo công tác tiếp quản Thủ đô. Ngày 17-9-1954, Ủy ban Quân chính TP Hà Nội được thành lập để tiếp thu và quản lý thành phố.
Hội đồng Chính phủ công bố các chính sách đối với thành phố mới giải phóng, chính sách đối với tôn giáo, các điều kỷ luật của bộ đội, cán bộ và nhân viên khi vào thành phố mới giải phóng; Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị bộ đội về giải phóng Hà Nội phải giữ vững trật tự an ninh của thành phố, bảo vệ nhân dân, bảo vệ ngoại kiều, triệt để chấp hành các chính sách và kỷ luật mà Chính phủ đã đề ra, phải nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu khiêu khích của bọn phá hoại.
Ngày 30-9-1954, ta và Pháp ký Hiệp định chuyển giao Hà Nội về quân sự; ngày 2-10, ký Hiệp định chuyển giao Hà Nội về hành chính. Theo đó, nguyên tắc chuyển giao là đảm bảo trật tự, an toàn, không được phá hoại và không làm gián đoạn mọi hoạt động của đời sống thành phố.
Theo các văn bản đã được ký kết, từ ngày 2 đến 5-10-1954, các đội hành chính, trật tự của ta vào thành phố, chuẩn bị tiếp quản các cơ quan, công sở, các công trình công cộng. 422 cán bộ, nhân viên Đội hành chính và 158 Công an vũ trang của Đội trật tự đã kiểm kê và giải quyết các công việc chuẩn bị nhận bàn giao từ phía Pháp và ngụy quyền, lập xong các biên bản để bàn giao vào ngày 7-10-1954.
Đến 16 giờ, ngày 9-10-1954, những tên lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên; quân dân ta hoàn toàn kiểm soát thành phố. Sáng 10-10-1954, Ủy ban Quân chính thành phố và các đơn vị QĐND Việt Nam gồm bộ binh, pháo binh, cao xạ, cơ giới… chia làm nhiều cánh quân mở cuộc hành quân lịch sử tiến vào Hà Nội. Hai mươi vạn nhân dân Thủ đô Hà Nội hân hoan chào đón đoàn quân chiến thắng.
Hà Nội cùng QĐND Việt Nam đã tiếp quản tuyệt đối an toàn và nhanh gọn toàn bộ các vị trí quân sự của địch ở Hà Nội: Sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm, Đồn Thủy, khu Thành, những vị trí có tầm quan trọng đặc biệt. Ta tiếp thu 129 công sở, công trình lợi ích công cộng, xí nghiệp, bệnh viện, trường học…, trong đó có phủ Toàn quyền cũ, phủ Thủ hiến Bắc Việt (Bắc bộ phủ cũ), Sở Mật thám Liên bang Đông Dương, những cơ quan đầu não, trọng yếu của Pháp.
Hân hoan niềm vui giải phóng
Theo hồi ức của Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 2, buổi chiều 10-10-1954, là lễ chào cờ lịch sử. Lá cờ chiến thắng của Tổ quốc tung bay trên đỉnh Cột Cờ Hà Nội. Trời thu Hà Nội xanh ngắt, điểm một sắc cờ đỏ thắm tựa bông hoa. Trên sân vận động Manzin (nay là sân Cột Cờ), các đơn vị tham dự lễ chào cờ tập hợp thành khối vuông nghiêm chỉnh. Hàng đầu là đội hình bộ binh gồm: Trung đoàn Thủ đô, đại diện các đơn vị Đại đoàn 308 và Trung đoàn 57, Đại đoàn 304. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 54 - Quyết tử quân Hà Nội mùa đông năm 1946 được cử làm Tổng trực chỉnh đốn, báo cáo với Tham mưu trưởng Đại đoàn Vũ Yên.
Đứng sau đội hình bộ binh là đội hình cơ giới và pháo binh xếp hàng ngang thẳng tắp, xe pháo nghiêm chỉnh, pháo thủ và bộ binh cơ giới đứng nghiêm trên xe. Xung quanh sân vận động, nhân dân các khu phố kéo đến đông nghịt đứng vòng trong, vòng ngoài chật ních cả đường Hoàng Diệu và đường Cột Cờ (nay là đường Điện Biên Phủ). Ai cũng muốn có mặt trong lễ chào cờ lịch sử hôm ấy. Đúng 15 giờ, còi Nhà hát Lớn vang lên một hồi dài. Toàn thành phố Hà Nội hướng về thành Hoàng Diệu. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên đỉnh Cột Cờ cổ kính. Cả Hà Nội tưng bừng hân hoan trong niềm vui giải phóng, tự hào về sức mạnh hùng hậu kháng chiến, biết ơn Đảng và Bác Hồ kính yêu.
Trong thư gửi đồng bào Hà Nội sau ngày giải phóng Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tám năm qua, Chính phủ đã phải xa rời Thủ đô để kháng chiến cứu nước. Tuy xa nhưng lòng Chính phủ luôn gần cạnh đồng bào. Ngày nay, do nhân dân ta đoàn kết nhất trí, quân đội ta chiến đấu anh dũng, hòa bình đã thắng lợi, Chính phủ ta lại trở về Thủ đô với đồng bào. Muôn dặm một nhà, lòng vui mừng khôn xiết”.
Hà Nội được giải phóng không chỉ là niềm vui mừng của người dân Thủ đô, mà còn là một sự kiện lịch sử, một ngày hội lớn của nhân dân cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài. Các nước trong phe xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới cũng phấn khởi, cùng chia vui, các báo, đài đưa tin và giới thiệu về sự kiện lịch sử này.
Ngày 10-10-1954, ngày Hà Nội sạch bóng quân thù. Ngày này cũng trở thành mốc son trong lịch sử xây dựng và phát triển của Thủ đô và đất nước, đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa to lớn, mở ra thời kỳ phát triển mới hết sức vẻ vang trong lịch sử Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Thủ đô Hà Nội hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của đế quốc thực dân, nhân dân lao động làm chủ vận mệnh của mình, phấn khởi bắt tay vào xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Hương Lê