Biên phòng - Những ngày đầu tháng 5, khi đến với tỉnh Điện Biên, tôi cảm nhận được bầu không khí hân hoan, vui mừng của đồng bào các dân tộc nơi đây. 66 năm đã trôi qua, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn luôn là niềm tự hào đối với toàn thể cán bộ, chiến sĩ, nhân dân tỉnh Điện Biên và để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng mỗi cựu chiến binh tham gia chiến dịch.

Nhờ sự giới thiệu của Hội Cựu chiến binh tỉnh Điện Biên, tôi có dịp gặp gỡ và trò chuyện với cựu chiến binh Phạm Đức Cư, hiện đang sống tại tổ 10, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Dù năm nay đã 90 tuổi, nhưng cựu chiến binh Phạm Đức Cư vẫn nhớ như in ký ức của những ngày chiến đấu đầy gian khổ, nhưng rất đỗi tự hào của các pháo thủ Tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367 tại Chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa.
Ông Cư cho biết, ông sinh năm 1930 trong một gia đình nông dân nghèo tại tỉnh Thái Bình, với lòng căm thù giặc sâu sắc, năm 1949, khi mới 19 tuổi, ông đã giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng và gia nhập QĐND Việt Nam. Sau đó, năm 1952, ông Cư được chọn sang nước bạn Trung Quốc huấn luyện về pháo cao xạ. Theo ông Cư, những pháo thủ đã được tuyển chọn rất gắt gao, họ là những chiến sĩ từng có kinh nghiệm chiến đấu, có sức khỏe tốt, thể hiện tinh thần dũng cảm, trung thành tuyệt đối với cách mạng.
Trải qua gần một năm học tập, huấn luyện, cuối năm 1953, đơn vị của ông Cư được lệnh bí mật về nước tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ với mật danh Trần Đình. Ngày 22-12-1953, Tiểu đoàn 394 hành quân hướng lên Tây Bắc. Đây là cuộc hành quân với quãng đường dài, đảm bảo bí mật, an toàn tuyệt đối về người và pháo, đến Điện Biên Phủ đúng thời gian dự kiến. Cuộc hành quân ra trận lần này đã để lại trong tâm trí cựu chiến binh Phạm Đức Cư nhiều dấu ấn.
Ông Cư thuật lại: Trong quá trình di chuyển, bộ đội ta phải vượt qua nhiều địa hình phức tạp, với đồi núi cao, dốc lớn, các con đường bí mật xuyên rừng, băng qua nhiều sông, suối. Dù trải qua hành trình gian khổ, vất vả, nhưng không khí hành quân ra trận của bộ đội và dân công ta luôn bừng bừng khí thế, tràn ngập ý chí quyết tâm đánh thắng kẻ thù. Qua 27 ngày đêm, Tiểu đoàn 394 đã đến khu tập kết trước hạn định an toàn tại khu rừng Tuần Giáo, cách tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ từ 15 -18km.
“Cuối tháng 1-1954, lực lượng công binh ngày đêm mở đường cho bộ binh, pháo binh ta tiến vào lòng chảo Mường Thanh, áp sát các cứ điểm của địch. Tiểu đoàn 383 do anh Vũ Thanh Giang làm Tiểu đoàn trưởng chiếm lĩnh ở sườn núi phía Đông Nam lòng chảo, còn Tiểu đoàn 394 của tôi do anh Trịnh Duy Hậu làm Tiểu đoàn trưởng chiếm lĩnh sườn núi phía Tây Nam lòng chảo. Hai đơn vị đã xây dựng 41 trận địa pháo, hình thành lưới lửa phòng không khống chế trọn vùng trời Điện Biên Phủ” - Ông Cư tự hào cho biết.
Ông nhớ lại: "Đối với những người lính pháo binh tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi không thể nào quên được những chặng đường kéo pháo từ Nà Nhạn vào trong lòng chảo, tiếp cận với quân địch. Mỗi khẩu pháo cao xạ 61K-37mm nặng 2,4 tấn nên phải bố trí 80 - 100 người kéo. Nhằm đảm bảo tính bí mật, chúng tôi kéo pháo vào ban đêm, không được soi đèn, chỉ có 2 chiến sĩ khoác mảnh dù trắng đi trước làm hoa tiêu, chỉ cần sơ suất nhỏ là cả người và pháo đều rơi xuống dưới. Anh em rất vất vả, mỗi đêm thường chỉ kéo được hơn 1km, nhưng được sự động viên của anh Phạm Đăng Ty, Chính trị viên Tiểu đoàn 394, nên chúng tôi đều quyết tâm kéo từng khẩu pháo vào trận địa”.
Trên chiến trường Điện Biên Phủ, nhiệm vụ chính của những người lính pháo cao xạ là chiến đấu với không quân địch, bảo vệ cho bộ binh chiến đấu. Ông Phạm Đức Cư cho biết, để có thể đánh phá được không lực hùng hậu của đối phương, các pháo thủ phải có sự phối kết hợp nhuần nhuyễn: “Mỗi người trong một khẩu đội pháo có một chức năng, nhiệm vụ riêng, nhưng đều phải thống nhất, phối hợp nhuần nhuyễn trong vận hành để đạt hiệu quả chính xác nhất”.
Chiều tối 13-3-1954, bộ đội ta nổ súng mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau màn pháo kích vào trận địa của pháo binh ta, các đơn vị của Đại đoàn 312 tiến công đánh chiếm khu vực đồi Him Lam, trước sức tấn công ào ạt, mãnh liệt của bộ đội ta, chỉ trong vòng 7 tiếng đồng hồ, quân ta đã làm chủ thế trận, hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Him Lam. Rạng sáng ngày 14-3, sau khi chiếm được đồi Him Lam, các đơn vị pháo cao xạ được lệnh sẵn sàng chiến đấu, với nhiệm vụ bảo vệ cho các đơn vị bộ binh bao vây, tiến công cứ điểm đồi Độc Lập.
Đêm 15-3, quân ta đã làm chủ, đánh chiếm đồi Độc Lập, sau đó 1 ngày, quân địch ở cứ điểm đồi Bản Kéo đã lũ lượt cầm cờ trắng ra đầu hàng. Để mất 3 cứ điểm tiền tiêu quan trọng ở Phân khu Bắc, thực dân Pháp huy động nhiều loại máy bay, đánh phá ác liệt vào trận địa của ta trong 2 ngày 16 và 17-3. Dù đối mặt với bom đạn của địch, nhưng bằng lòng quả cảm, tinh thần quyết tâm, những người lính cao xạ đầu đội mũ sắt vẫn kiên trì bám trận địa, anh dũng chiến đấu với không lực địch.
Qua 56 ngày đêm anh dũng chiến đấu, ông Cư và các đồng đội tại Trung đoàn pháo cao xạ 367 đã bắn rơi 52 máy bay chiến đấu các loại của thực dân Pháp, cắt đứt đường tiếp tế hàng không của địch, qua đó, góp công cùng QĐND Việt Nam làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại đó có sự hi sinh, mất mát của biết bao người lính Bộ đội Cụ Hồ vì độc lập, tự do của dân tộc, trong đó, có những người lính pháo cao xạ Trung đoàn 367. Khi nhắc đến sự hi sinh, mất mát của đồng đội, ông Cư nghẹn ngào: “Nhiều đồng chí đã bị thương, hi sinh trong quá trình chiến đấu, nhưng được sự quan tâm, động viên của đội ngũ cán bộ chính trị, anh em đã nhanh chóng tổ chức lại đội hình chiến đấu với khẩu hiệu “Còn một người, một khẩu pháo, một viên đạn cũng quyết tâm chiến đấu đến cùng”. Cả đơn vị ai cũng thương nhớ các đồng chí hi sinh nên càng quyết tâm chiến đấu hạ máy bay địch”.
Trở về cuộc sống đời thường, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa vẫn giữ vững và phát huy phẩm chất người lính Bộ đội Cụ Hồ, truyền thống gia đình cách mạng, ông Cư luôn gương mẫu đi đầu trong vận động gia đình và nhân dân chấp hành tốt các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, hăng hái tham gia lao động sản xuất, đóng góp trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền tại địa phương. Ngoài ra, ông cũng giáo dục con cháu tiếp tục phát huy tinh thần, hào khí Điện Biên năm xưa, tiếp bước truyền thống cha anh, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trọng Thành