Biên phòng - Vừa qua, Trung Quốc không chỉ ngang ngược hạ đặt trái phép giàn khoan dầu Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) cùng nhiều tàu vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, mà còn cố tình tuyên truyền "bẻ cong" sự thật lịch sử, vu cáo lại Việt Nam để biện minh cho những yêu sách vô lý đầy tham vọng của họ.
Trung Quốc còn đưa ra cáo buộc rằng, Việt Nam phân 57 lô dầu khí tại các vùng biển có tranh chấp. Tuy nhiên, Trung Quốc không đưa ra được một cơ sở pháp lý nào để chứng minh cáo buộc trên. Việt Nam bác bỏ quan điểm này và khẳng định mọi hoạt động dầu khí của Việt Nam đang nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo công ước quốc tế.
Lịch sử ngành dầu khí Việt Nam đã ghi nhận Việt Nam đã triển khai các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa và vùng biển Việt Nam từ trước năm 1975.
Ngay từ năm 1969-1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành khảo sát khoảng 12.000km tuyến địa chấn 2D kết hợp khảo sát từ, trọng lực hàng không ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam (khu vực bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Mã Lai - Thổ Chu và Tư Chính - Vũng Mây).
Trong hai năm 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa cũng đã hợp tác với các Công ty Western Geophysical và Geophysical Services Inc (Hoa Kỳ) tiến hành các khảo sát địa chấn 2D: Dự án WA74-HS khảo sát khu vực từ ngoài khơi bờ biển miền Trung bao trùm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Các dự án khảo sát địa chấn này khẳng định Việt Nam đã tiến hành khảo sát thực địa, thăm dò dầu khí trên vùng biển Việt Nam từ lâu.
![]() |
Lắp chân đế giàn khoan mỏ Đại Hùng 2 trên Biển Đông của Việt Nam. Ảnh: nangluongvietnam.vn |
Kể từ sau khi thành lập Tổng cục Dầu khí (tiền thân của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam hiện nay) năm 1975, hoạt động dầu khí được tiếp tục phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trên toàn bộ thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, bao gồm cả các khu vực Hoàng Sa, Trường Sa, Tư Chính - Vũng Mây. Sau khi Quốc hội Việt Nam phê chuẩn tham gia Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) vào năm 1996, theo chỉ đạo của Chính phủ Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã điều chỉnh phạm vi hoạt động dầu khí và chỉ tiến hành các hoạt động dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
Ở khu vực Hoàng Sa, Phú Khánh hoạt động thăm dò dầu khí (khảo sát địa chấn, từ, trọng lực) đã được tiến hành từ trước năm 1975 do chính quyền Việt Nam Cộng hòa thực hiện. Mạng lưới khảo sát địa chấn khu vực phủ khu vực quần đảo Hoàng Sa được khảo sát vào năm 1973, khu vực Phú Khánh năm 1974.
Năm 1985, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã thực hiện đề án khảo sát địa chấn khu vực miền Trung sử dụng tàu Ma-lu-gin (Liên Xô trước đây). Từ năm 1983 - 1985, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam cùng Liên đoàn Địa Vật lý Thái Bình Dương Nga (DMNG) thực hiện 2 đợt khảo sát địa chấn khu vực Tây Nam Biển Đông, trong đó bao gồm cả khu vực bãi Tư Chính.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam diễn ra từ lâu, bình thường, mặc dầu hoạt động này đã một số lần bị Trung Quốc cản trở phi pháp. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam khẳng định vẫn sẽ tiếp tục tiến hành các hoạt động bình thường ở các khu vực này cũng như ở các khu vực khác trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tập đoàn đã ký 99 hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí, trong đó, 60 hợp đồng hiện đang có hiệu lực. Khối lượng công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trên vùng biển, thềm lục địa Việt Nam đã đạt trên 500.000km tuyến khảo sát địa chấn 2D, trên 50.000km2 địa chấn 3D và khoảng 900 giếng khoan. Tất cả các hoạt động dầu khí đều nằm trong phạm vi thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.
Kể từ năm 1996 đến nay, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã ký nhiều hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí với các công ty dầu khí nước ngoài ở khu vực Tư Chính - Vũng Mây. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các nhà thầu dầu khí đã thực hiện hàng loạt các khảo sát địa chấn 2D, 3D bình thường nhằm đánh giá tiềm năng dầu khí ở khu vực này.
Tại khu vực Hoàng Sa và Phú Khánh, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng đã ký nhiều hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí với các công ty dầu khí nước ngoài và thực hiện công tác khảo sát địa chấn 2D, 3D.
Mới đây nhất, hãng dầu khí quốc doanh Ấn Độ ONGC Videsh Ltd (OVL) cũng cho biết có ý định tiếp tục kế hoạch thăm dò lô 128 trong dự án hợp tác với Việt Nam tại Biển Đông.
Trước đây, OVL từng gia hạn hợp đồng thăm dò lô 128 trong 2 năm, bất chấp sự phản đối ngang ngược và phi lý của Trung Quốc. Thỏa thuận gia hạn đó kết thúc vào tháng 6 và lãnh đạo OVL cho biết, hãng này muốn gia hạn thêm 1 hoặc 2 năm nữa.
Động thái này của Ấn Độ càng củng cố hơn nữa sự hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau, trong bối cảnh Trung Quốc đang có những hành động gây hấn làm căng thẳng trên Biển Đông.
Năm 2012, Tập đoàn năng lượng quốc doanh khổng lồ Gazprom của Nga đã ký thỏa thuận liên doanh khai thác khí đốt với Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam tại Biển Đông. Gazprom nắm 49% cổ phần của dự án này, trong khi số cổ phần còn lại do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nắm giữ.
Hai bên đã tiến hành khai thác khí đốt tại hai lô 05.2 và 05.3 ở Biển Đông với tổng trữ lượng khí đốt của cả hai mỏ này ước tính lần lượt ở mức 55,6 tỷ m3 và 25,1 tỷ tấn khí ngưng tụ.
Ngay sau đó, Trung Quốc đã vô cớ đòi Nga phải ngừng khai thác dầu khí ở Biển Đông, tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã khẳng định: "Các dự án hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí hiện nay, bao gồm cả các dự án hợp tác với Gazprom, đều nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, hoàn toàn thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, đều phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982. Việt Nam cam kết và có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các đối tác nước ngoài tại Việt Nam".
Có thể thấy, các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam và các đối tác nước ngoài từ lâu nay đều được triển khai hết sức bình thường, không có bất kỳ sự cản trở nào.
Những luận điệu mà Trung Quốc đưa ra xuyên tạc, vu cáo đối với hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam là hoàn toàn vô căn cứ và sai trái, không đúng với luật pháp quốc tế mà ai cũng hiểu là để phục vụ mục tiêu hiện thực hóa cái gọi là "đường lưỡi bò" hết sức phi lý với mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.