Biên phòng - Công tác thi hành án dân sự (THADS) đang được dư luận quan tâm khi Bộ Tư pháp công bố, đến hết tháng 5-2020, các cơ quan THADS mới thi hành xong 58,28% vụ việc (322.000 vụ việc, tương ứng với số tiền hơn 29.968 tỷ đồng). Từ tháng 10-2019 đến hết tháng 3-2020, công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, mới thi hành xong 1.679 vụ việc, với số tiền trên 7.746 tỷ đồng.
Tuy số tiền thi hành án tăng nhiều so với những năm trước, nhưng Tổng cục THADS thừa nhận, khối lượng tài sản cần phải thu hồi còn rất lớn. Bởi phần lớn số tiền thu hồi được (gần 16.997 tỷ đồng) chủ yếu nằm trong 15 vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo.
Kết quả thu hồi tài sản từ các vụ án tham nhũng lớn liên quan đến các bị can Phạm Công Danh, Hứa Thị Phấn, Phan Văn Anh Vũ... cho thấy, công tác thu hồi tài sản vẫn rất khó khăn do thủ đoạn tinh vi của các đối tượng có chức vụ.
Vướng mắc trong xử lý, thu hồi tài sản vẫn là một hạn chế lớn trong công tác phòng, chống tham nhũng của nước ta hiện nay. Vì một số vụ việc, tài sản đã được tòa án kê biên để đảm bảo thi hành án, nhưng số tài sản được cơ quan THADS xác minh, truy tìm, thu hồi được ít.
Tổng cục THADS giải trình, người phải thi hành án là người có chức vụ, quyền hạn thường có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đối phó ngay từ đầu khi thực hiện hành vi phạm tội. Họ chủ động xóa dấu vết, tiêu hủy giấy tờ, chứng cứ liên quan đến hành vi phạm tội, lợi dụng sơ hở của quy định pháp luật và hoạt động tố tụng để tẩu tán, che giấu, cất giấu tài sản ở nước ngoài hoặc chuyển nhượng, sang tên, tặng cho người khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án...
Tuy nhiên, các chuyên gia pháp luật chỉ ra, nguyên nhân chính là do pháp luật về tố tụng hình sự; phòng, chống tham nhũng; phá sản và thẩm định giá, bán đấu giá... còn khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng. Thậm chí, một số quy định đang mâu thuẫn, chồng chéo với Luật THADS và các văn bản hướng dẫn hiện hành.
Bộ Tư pháp khẳng định, kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng còn cao hơn nữa, nếu có sự phối hợp chặt chẽ liên ngành giữa các lực lượng Công an, Kiểm sát, Thanh tra, Kiểm toán, Thuế trong công tác xác minh tài sản của các bị can, bị cáo trước khi bị khởi tố điều tra, khởi tố vụ án.
Đồng tình với quan điểm trên, nhiều chuyên gia pháp luật kiến nghị Việt Nam cần tiếp thu kinh nghiệm một số quốc gia đang áp dụng hiệu quả biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng không phụ thuộc vào kết án hình sự, còn gọi là thu hồi dân sự.
Cụ thể, cơ quan thực thi pháp luật đề nghị Tòa án ban hành các lệnh kê biên, phong tỏa, tạm giữ, tịch thu... bằng việc đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh tài sản đó có nguồn gốc bất hợp pháp, không phụ thuộc vào việc người bị nghi ngờ có bị kết tội hay không và trách nhiệm chứng minh nguồn gốc hợp pháp của tài sản là của đối tượng sở hữu.
Đồng thời, Việt Nam cần tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản như Nhóm hợp tác chống rửa tiền châu Á - Thái Bình Dương (APG), Mạng lưới liên cơ quan về thu hồi tài sản do phạm tội mà có thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương (ARIN - AP)...
Thiết nghĩ, Bộ Tư pháp cần tập trung hoàn thiện khung pháp lý trong thu hồi tài sản với trọng tâm là xây dựng luật tương trợ tư pháp về hình sự, theo hướng coi trọng hơn yêu cầu thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát.
Thanh Thảo