Biên phòng - Thực tế cho thấy, có rất nhiều vật dụng phục vụ đời sống hằng ngày của con người được chế tác từ tre nứa, trong đó có các loại hình nhạc cụ.

Lồ ô là tên gọi một loài tre nứa ở núi rừng Tây Nguyên có thân thẳng, vỏ mỏng, ống dài. Từ lồ ô, bà con dân tộc thiểu số đã chế tác ra nhiều loại nhạc cụ độc đáo, trong đó có đàn klông-pút. So với đàn tơ-rưng thì klông-pút có vẻ... "kém duyên" hơn một chút, vì ít được đem ra biểu diễn và thưởng thức một cách phổ biến!
Ống lồ ô dùng để làm đàn klông-pút thường to hơn ống đàn tơ-rưng, vì thế, tiếng đàn klông-pút bao giờ cũng trầm lắng, còn tơ-rưng thì trong trẻo, lảnh lót hơn. Nếu những ống lồ ô của đàn tơ-rưng được cột liền nhau treo cao thành hình cánh võng để người chơi đứng thẳng lưng cầm dùi nhỏ gõ vào thân ống để phát ra âm thanh, còn đối với đàn klông-pút cũng cột ghép nhiều ống lồ ô nhưng neo trên một khung giàn cố định đặt thấp. Khi chơi, người chơi đứng lom khom, hai bàn tay khum kín các ngón lại và vỗ đều vào nhau trước các đầu ống lồ ô để hơi gió lọt vào ống tạo thành âm thanh. Tùy theo độ dài ngắn của ống mà âm thanh phát ra bổng trầm, trong đục.
Chơi đàn tơ-rưng thì gọi là "gõ đàn", còn chơi đàn klông-pút thì gọi là "vỗ đàn". Thực ra, từ "vỗ đàn" cũng chưa chuẩn! Gõ, gảy… là tác động trực tiếp vào dây hoặc thân đàn, đằng này chỉ vỗ khơi khơi bên ngoài đầu ống để đưa hơi gió vào ruột ống, chứ không hề đụng chạm tới đàn! Vì vậy, vỗ đàn klông-pút là cả một kỹ thuật và nghệ thuật. Người chơi phải khum hai bàn tay sao cho vừa khít kín để khi vỗ vào nhau tạo ra hơi gió ít ỏi lọt thẳng vào ruột ống đủ lực phát ra âm thanh!
Theo các nhà dân tộc học và văn hóa học, đàn klông-pút chỉ dành cho phụ nữ chơi, để "vỗ về" hồn mẹ lúa, nam giới tuyệt nhiên không!
Vào những năm 1980, người viết bài này có dịp đi thăm các pơ-lei (làng) vùng đồng bào Xê-đăng Tơ-đra gần thành phố Kon Tum đã phát hiện nhiều nhà có giàn đàn klông-pút. Giàn đàn klông-pút hầu như đều được đặt cạnh xum (kho) lúa của gia đình. (Xum là chòi nhỏ dựng cách nhà một quãng làm kho lưu giữ lúa ngô của từng gia đình). Vào mỗi buổi chiều, sau một ngày đi làm nương rẫy về, trước khi mở cửa xum lấy thóc đem giã gạo nấu bữa tối, các bà, các cô thường khom người bụm tay vỗ đàn klông-pút một đoạn âm thanh "bum bum bùm búm bum búm bum…". Vỗ dài hay ngắn có lẽ tùy ngẫu hứng lúc ấy của mỗi người. Giữa chiều tà nơi núi rừng tĩnh mịch, những âm thanh trầm đục của tiếng đàn klông-pút tràn vào lòng người gợi lên một tâm trạng viễn vọng, mơ hồ, xa vời vợi...
Vào những đêm trăng sáng, tiếng đàn klông-pút cất lên như muốn gửi nhắn tâm tình với người thương... Hỏi các già làng, mới hay: Chơi đàn klông-pút lúc chiều là các bà, còn ban đêm thường là các cô. Đêm đêm, các chàng trai Xê-đăng có đàn ting-ning chiêu dụ bạn tình, thì các cô gái Xê-đăng cũng nhờ đàn klông-pút nhắn gửi rằng, em đây cũng vẫn... phòng không!
Sự độc đáo của dàn đàn, cách chơi đàn và đặc biệt là âm sắc của tiếng đàn klông-pút đã len vào dòng thơ ca kháng chiến nơi núi rừng biên giới Kon Tum thời đánh Mỹ với nhiều hình tượng đẹp và những cảm nhận phong phú. Tác giả Nguyễn Duy Nhiệm, nguyên Đội trưởng Đội văn công trực thuộc Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đã "phân tích" tiếng đàn qua bài thơ "Âm sắc hai cây đàn": "Tiếng đàn tơ-rưng/ Như suối reo/ Chim hót/ Gọi dân làng/ Múa hát/ Lễ đâm trâu / Và / Klông-pút / Mãi/ Trầm tĩnh/ Thẳm sâu / Như lời em/ Gọi tình yêu/ Lặng lẽ...".
Còn nhà thơ Hồng Chinh Hiền, nguyên cán bộ Tuyên huấn H30 (đông Đăk Glei) có bài thơ "Tiếng đàn klông-pút" như một cách "chứng thực" cho ý nghĩa tiếng đàn klông-pút giữa đêm khuya của các nàng sơn nữ nhắn gửi trai làng: "Nghe tiếng ống bương giục/ Anh đến với em đây/ Xem em múa đôi tay/ Giàn ống này cha gọt/ Dựng bên cây mẹ trồng/ Khu vườn em bỗng rộn/ Tiếng trai của nhiều buôn/ Anh thương em, thương hơn/ Chỉ có klông-pút biết/ Em yêu anh, yêu thiệt/ Chỉ có klông-pút hay/ … / Tiếng đàn em thánh thót/ Bước chân anh nôn nao/ Tiếng đàn như ngọn mác/ Xẻ ruột anh bay vào/ Mai anh đi xa rồi/ Nghe được đêm này nữa/ Ôi, klông-pút, đàn ơi/ Nói cho cùng lời hứa/ Đàn hãy đi theo ta/ Réo rắt trên đường xa/ Nửa chừng đừng bỏ lạc/ Theo ai về ngả khác/ … /Giữa phiên canh đợt gác/ Tiếng đàn hãy đi theo/ …/ Ôi, tiếng đàn klông-pút…".

Có thể nhận thấy rằng, những đôi bàn tay của phụ nữ Xê-đăng vô cùng khéo léo, thiện nghệ và điệu nghệ khi vỗ đàn klông-pút (như câu thơ "xem em múa đôi tay" vừa dẫn) được Nguyễn Duy Nhiệm ngợi ca trong một bài thơ khác: "Em gái Xê-đăng giết giặc, làm nương/ Chẳng có thời gian quen chương vật lý/ Đôi bàn tay em - bàn tay chiến sĩ/ Lại gọi gió cười qua nứa hoá âm thanh/ Đôi bàn tay em là của rừng xanh/ Duyên dáng dịu dàng như cành lá biếc/ Năm ngón tay em mang hình khuôn nhạc/ Để âm thanh đẹp như tiếng nói em/ Lần đầu tiên anh qua đất Tây Nguyên/ Ngỡ ngàng quá - gặp âm thanh kỳ diệu/ Và hôm nay, thời gian cho anh hiểu/ Đôi bàn tay em: Nôi âm thanh quê hương/ …/ Diệu kỳ thay đôi bàn tay xinh xinh…".
Trên nhiều sách vở, báo chí, có lẽ bạn đọc đã đọc và biết nhiều về đàn klông-pút, nhưng có lẽ ít người được thấy và nghe "tại chỗ" (tại pơ-lei) với đầy đủ yếu tố tự nhiên thô mộc vốn dĩ của nó. Phải "mục sở thị" tại chỗ nơi thôn làng giữa núi rừng cao nguyên mới cảm được hết cái "hồn vía" âm trầm, vi diệu của tiếng đàn klông-pút.
Tạ Văn Sỹ