Biên phòng - Thảo luận ở hội trường về dự án Luật Cư trú (sửa đổi), các đại biểu cơ bản nhất trí với việc đổi mới phương thức quản lý cư trú của công dân thông qua số định danh cá nhân, được cập nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Theo đại biểu Ngàn Phương Loan (Lạng Sơn) nếu luật được thông qua sẽ có hiệu lực từ ngày 1-7-2021. Như vậy, đến tháng 12-2020, toàn bộ công dân Việt Nam sẽ được cấp số định danh cá nhân. Tuy nhiên, sau hơn 4 năm triển khai Luật Căn cước công dân, đến nay mới có hơn 18 triệu công dân được cấp số định danh cá nhân.
“Đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu thêm về điều kiện được chuyển tiếp đối với một số vùng đặc thù, có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận với các quy định mới. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Đối với những vùng này, việc chuyển đổi từ sổ hộ khẩu sang số định danh cá nhân có thể cần nhiều thời gian hơn, từ đó ảnh hưởng đến việc cập nhật thông tin về cư trú vào Cơ sở dữ liệu về cư trú, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Ban soạn thảo nghiên cứu thêm về điều khoản chuyển tiếp để có lộ trình phù hợp với các vùng này, tránh gây xáo trộn, khó khăn cho các tổ chức, cá nhân” - Đại biểu Ngàn Phương Loan nhấn mạnh.

Nhấn mạnh việc bỏ sổ hộ khẩu giấy để chuyển sang quản lý cư trú bằng khoa học công nghệ là một đề xuất có tính đột phá của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý cư trú, song đại biểu Leo Thị Lịch (Bắc Giang) bày tỏ một số băn khoăn về tính khả thi của quy định này.
Theo đại biểu, trên thực tế, hộ khẩu là điều kiện không thể thiếu đối với nhiều nhu cầu của người dân trong giao dịch với cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực chính trị, hành chính, dân sự và nhiều giao dịch khác. Tuy nhiên, theo báo cáo của Chính phủ, đến tháng 6-2021, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mới hoàn thành và vận hành bình thường. Trong khi đó, việc cấp mã số định danh cá nhân dự kiến kết thúc vào tháng 12-2020. Còn việc cấp căn cước công dân vẫn song hành với việc cấp chứng minh thư nhân dân 9 số ở 47 tỉnh, thành phố...
Các đại biểu cho rằng, nếu thực hiện theo đúng lộ trình của dự thảo Luật, sẽ có sự vênh nhau về thời gian, vì chưa đồng bộ về các cơ sở dữ liệu. Điều này cho thấy trong thời gian nửa năm đó, cơ quan, tổ chức chưa có Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để đối chiếu xác định thông tin trên Căn cước công dân, Chứng minh thư nhân dân. Mặt khác, trong quá trình xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, việc phải xử lý một khối lượng thông tin rất lớn cũng khó bảo đảm sự chính xác tuyệt đối thông tin của từng cá nhân, phát sinh khó khăn cho người dân khi giao dịch với các cá nhân, tổ chức. Từ những phân tích trên, nhiều đại biểu đề nghị Chính phủ cần xem xét thêm lộ trình thực hiện những quy định này để bảo đảm tính khả thi của luật.

Cùng quan điểm, đại biểu Trần Thị Dung (Điện Biên) cho rằng, nếu bỏ sổ hộ khẩu giấy ngay thì tất cả các UBND xã, các cơ quan Nhà nước từ cơ sở sẽ phải trang bị lại toàn bộ hệ thống máy tính, cơ sở thiết bị để có thể truy cập, sử dụng, thay vì chỉ kiểm tra sổ hộ khẩu. Cùng với đó, người làm công tác này cũng phải được đào tạo, hướng dẫn, tập huấn để quản lý, sử dụng. Việc thay đổi này sẽ tạo ra những chi phí không nhỏ.
“Những chỗ nào đủ điều kiện thì làm trước, có tổng kết, rút kinh nghiệm, bảo đảm phù hợp với mỗi địa phương. Nếu triển khai trên toàn quốc ngay mà thực hiện không hiệu quả, phải quay trở lại cách làm cũ thì còn tốn kém hơn rất nhiều và tác động đến đời sống xã hội...” - đại biểu Trần Thị Dung đề nghị.
Trước đó, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Thanh niên (sửa đổi) với 91,3% đại biểu tán thành. Luật gồm 7 chương, 41 điều, giảm 21 điều quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của thanh niên; chính sách của Nhà nước đối với thanh niên; trách nhiệm của cơ quan, nhà trường, gia đình, tổ chức thanh niên, cá nhân và các tổ chức khác đối với thanh niên; quản lý nhà nước về thanh niên. Luật áp dụng đối với thanh niên (các công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi); cơ quan, tổ chức, cá nhân; nhà trường, gia đình.
Với 90,27% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Với 4 chương, 42 điều, quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên tại Tòa án, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án; trách nhiệm của Tòa án đối với công tác hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại; công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.
Viết Hà