Biên phòng - Với 53 năm tuổi đời, 33 năm tuổi quân, Trung tá Lò Văn Phánh, nhân viên Đội Vận động quần chúng, Đồn Biên phòng Mường Lèo, BĐBP Sơn La đã dành trọn cả đời binh nghiệp gắn bó với biên giới Mường Lèo - một vùng đất xa xôi, khó khăn nhất của huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

Nghĩa tình trên đỉnh núi
Nhắc đến Trung tá Lò Văn Phánh, người dân các bản vùng cao xã Mường Lèo ai cũng nghĩ ngay đến một người cán bộ Biên phòng hiền hậu, gần gũi và luôn hết mình vì nhân dân. Sinh ra và lớn lên trong gia đình nghèo ở huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, 20 tuổi, chàng thanh niên Lò Văn Phánh nhập ngũ vào lực lượng BĐBP. Tuổi trẻ nhiệt huyết và luôn đồng cảm với người dân nghèo, thế nên, bất cứ công việc nào chỉ huy giao, dù khó khăn, vất vả đến mấy, anh cũng luôn nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Với đặc thù công việc của người cán bộ làm công tác dân vận, anh thường xuyên xuống địa bàn nắm tình hình, tuyên truyền, vận động nhân dân, nói sao cho dân nghe, dân hiểu, dân tin những việc BĐBP làm. Trên địa bàn đơn vị phụ trách chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông, Khơ Mú sinh sống, anh Phánh đã tự học tiếng của đồng bào, tìm hiểu phong tục tập quán, thực hiện “3 bám, 4 cùng” với bà con nhân dân. Thấy người cán bộ Biên phòng chịu thương, chịu khó, luôn gần gũi, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của bà con, dần dà, bà con khắp các bản làng ai cũng quý mến và coi cán bộ Phánh như người thân trong nhà.
Kể về kỷ niệm ngày đầu ra trường về nhận công tác tại Đồn Biên phòng Mường Lèo, Trung tá Phánh chậm rãi chia sẻ: Ngày mới vào đơn vị, tôi được chỉ huy giao lên Tổ công tác Pá Khoang nắm tình hình, vận động nhân dân không di dịch cư tự do. Tổ công tác nằm trên đường tuần tra biên giới, cách đơn vị hơn 60km, chỉ là con đường mòn, một bên là núi cao, một bên là vực sâu thăm thẳm, phải đi bộ mất 2 ngày mới tới nơi. Sinh ra ở vùng cao, nhưng quả thật, nhìn những ngọn núi cao ngút, tôi cũng có chút e ngại. Tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ thoáng qua thôi, sau đó, tôi quyết tâm lên đường. Đi đến đâu gặp nhà dân thì xin nước uống, nghỉ nhờ, rồi lại tiếp tục hành trình… Bản xa, đường đi lại lúc ấy chỉ là con đường mòn, người Mông, người Khơ Mú nơi đây đời sống còn rất lạc hậu.
Đến với bà con, cán bộ Biên phòng phải cầm tay chỉ việc, từ những việc nhỏ nhất như làm chuồng để chăn nuôi gia súc, gia cầm, tránh bị thú rừng ăn thịt, làm nhà vệ sinh, ăn chín, uống sôi, sinh đẻ có kế hoạch… Việc tuyên truyền không dễ dàng, bởi nhiều hủ tục đã ăn sâu, bén rễ vào nếp nghĩ của đồng bào. Nhưng rồi “mưa dầm thấm lâu”, tôi cứ kiên trì thuyết phục, rồi làm mẫu. Đến bây giờ, trong suy nghĩ và hành động của bà con vùng cao biên giới đã có sự đổi thay vượt bậc.
Khi chúng tôi đặt vấn đề về viết bài chân dung về Trung tá Phánh, Thiếu tá Mai Thế Cảnh, Chính trị viên phó đồn Biên phòng Mường Lèo đã không giấu được ánh mắt tự hào khẳng định: “Với đơn vị, đồng chí Phánh là một tấm gương tốt, đi đầu và là người “truyền lửa” cho đồng đội thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao”.
Khúc ca nơi biên cương
Sau bữa cơm tối, uống vội chén trà nóng,Trung tá Lò Văn Phánh và Đại úy Hờ A Thành lại rời Tổ công tác Pá Khoang đi xuống điểm trường tiểu học của bản để dạy xóa mù chữ cho chị em phụ nữ. Lớp học này đã duy trì được gần 3 tháng và 2 người lính Biên phòng cứ thế ngày làm nhiệm vụ công tác Biên phòng, tối làm thầy giáo quân hàm xanh. Sau khi ổn định lớp học, Trung tá Lò Văn Phánh hướng dẫn các học viên đọc bài. Những âm thanh vang lên giữa màn đêm tĩnh lặng của núi rừng. Nhìn cách anh say sưa giảng bài, ai cũng dễ dàng cảm nhận được sự nhiệt huyết của người thầy giáo và sự khao khát đến cháy bỏng được học cái chữ của những học viên là phụ nữ người Mông vùng cao.

Chị Vừ Thị Dê, học viên xóa mù chữ bản Pá Khoang cho biết: “Thầy Phánh giỏi lắm, thầy nhiệt tình dạy cho chị em chúng tôi cái chữ để biết đọc, biết viết cái tên của mình. Thầy còn giúp chúng tôi cắt cỏ, gặt lúa và thu hoạch ngô. Hôm nào lớp nghỉ do thầy Phánh bận công tác, chị em chúng tôi rất buồn”.
Được biết, gia đình Trung tá Lò Văn Phánh cũng là một gia đình mẫu mực, được nhiều người ngưỡng mộ. Vợ của anh là cô gái quê gốc ở Hưng Yên, lên Sơn La lập nghiệp rồi bén duyên với người lính Biên phòng. Hai vợ chồng anh đã dành cả tuổi xuân để bám trụ trên biên giới. Ngày đầu lên biên giới vô vàn khó khăn, người vợ mang bầu đứa con trai đầu lòng được 6 tháng. Chỉ huy đơn vị cho vợ chồng anh mượn một căn nhà tạm ở cổng đồn, ngày ngày chị nuôi lợn, làm nương và thu mua nông sản của bà con. Nói là lên biên giới cho vợ gần chồng, con gần bố, thế nhưng, vì là nhân viên vận động quần chúng nên thời gian của Trung tá Phánh chủ yếu ở địa bàn. Thêm nữa, khoảng cách từ tổ công tác về nhà phải đi bộ cả ngày đường, thế nên, có khi cả tháng trời, 2 vợ chồng anh mới gặp nhau một lần.
Thời gian cứ thế trôi đi, vợ chồng anh Phánh sinh đứa con trai đầu lòng, rồi đứa con thứ hai ra đời. Chị sống xa quê, không có người thân, nhưng bù lại có đồng chí, đồng đội của anh luôn bên cạnh giúp đỡ, thế nên khó khăn là vậy, nhưng tiếng cười luôn đầy ắp trong căn nhà gỗ bé nhỏ vắng bóng người chồng, người cha thường xuyên… Điều đáng nói, sinh ra và lớn lên ở miền biên viễn xa xôi, khó khăn, thiếu thốn đủ bề là thế, nhưng 2 con trai của Trung tá Lò Văn Phánh học rất giỏi. Con trai đầu của anh đã tốt nghiệp Trường Sĩ quan Chính trị, hiện đang công tác ở một đơn vị thuộc Quân khu 2. Con trai thứ 2 của anh cũng tốt nghiệp đại học và đang làm việc tại Tập đoàn FPT ở Hà Nội. Cứ thế, vợ chồng Trung tá Lò Văn Phánh cùng nhau viết nên “khúc ca hạnh phúc” nơi cuối trời biên cương.
Mai Anh